TIN VUI

 

Tuần san Bạn trẻ Công Giáo Tin Vui

 

 

 

 

Web site:www.tinvui.org E-mail : bantreconggiao@yahoo.com

Hoặc : tinvuivietnam@gmail.com

 

SỐ 73 MỒNG HAI TẾT CN 18.02.2007

 

Chúc mừng năm mới

 

Ban biên tập web site Tin vui

Kính chúc

,Hai Đức Hồng Y, Quý Đức cha, Quý cha, quý cộng tác viên và quý vị độc giả 

Một năm mới Đinh Hợi 2007 tràn đầy Phúc lộc bình an của Thiên Chúa

 

Suy niệm Chầu Thánh Thể Mùng Hai Tết

Tôn Kính Ông Bà Cha Mẹ.

THỰC HÀNH CHỚ KHÔNG PHẢI LÝ THUYẾT..

Hội Ðồng Giáo Hoàng "Ðồng Tâm" họp báo giới thiệu Sứ Ðiệp Mùa Chay năm 2007 của ÐTC Bênêđitô XVI.

Nội dung cuộc Phỏng vấn Đức Hồng Y GB. Phạm Minh Mẫn trên mạng lưới Vietcatholic.

NGUỒN GỐC CHỮ SONG HỈ.

Đâu Là Niềm Hy Vọng Cho Thế Giới Hôm Nay ?.

Xuân Tình Thương.

Ngày xưa... Tết Nguyên đán.

HÁI LỘC ĐẦU XUÂN..

NĂM HỢI GỢI CHUYỆN HEO THEO KINH THÁNH..

Chú heo trong sử Việt

Chú lợn trong lễ hội và ẩm thực ngày tết

TƯƠNG QUAN ĐỨC TIN GIỮA CHA MẸ VÀ CON CÁI.

Tâm lý giáo dục :  “Hành trang nào cho con vào đời?”  KHÔNG SỐNG CHO RIÊNG MÌNH..

YÊU LÀ NHÌN..

DẤU CHÂN CỦA THẦY..

YÊU TRẺ THƠ..

 

 

 

 

Web site:www.tinvui.org E-mail : bantreconggiao@yahoo.com

Hoặc : tinvuivietnam@gmail.com

 

 

SÔNG LỜI CHÚA

 

Suy niệm Chầu Thánh Thể Mùng Hai Tết

Tôn Kính Ông Bà Cha Mẹ

 

(Mc 7, 8-13)

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,

Hôm nay mùng hai tết, kính nhớ ông bà tổ tiên. Cây có gốc, nước có nguồn, con người sinh ra có cha có mẹ, có ông bà tổ tiên. Chúa đã dạy chúng con phải kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Một trong những điều răn của Thập giới về yêu thương tha nhân là thảo kính cha mẹ. Trong bài tin mừng hôm nay, Chúa cũng nhấn mạnh “điều răn này của Thiên Chúa”. Người đã lên án bộ mặt giả hình của những người Pharisêu và Kinh sư, họ chỉ lo dâng của lễ cho Thiên Chúa nhưng lại không chăm sóc cha mẹ, thì cũng chẳng đẹp lòng Chúa. Và Trong thư gửi giáo đoàn Ê-phê-xô, thánh Phao-lô tông đồ cũng dạy : “Hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ” (Ep 6,1-2). Do đó, tôn kính ông bà, cha mẹ là một bổn phận phải làm của người làm con không chỉ dành riêng cho những người kitô hữu mà cho tất cả mọi người. Việc làm này đã trở thành truyền thống tốt đẹp của mọi người trên thế giới, đặc biệt cách riêng với dân tộc Việt nam.

Thật vậy, lạy Chúa, chúng con được sống như ngày hôm nay là nhờ vào tình yêu, công lao, sự hy sinh vất vả của các bậc sinh thành, nên việc tôn kính cha mẹ là một việc làm phải đạo của các bậc làm con. Và lòng tôn kính này phát xuất từ sự biết ơn của con cái đối với ông bà cha mẹ. Lòng tôn kính này không phải là mớ lý thuyết xuông nhưng chúng con cần phải thể hiện bằng việc làm. Vì vậy, mỗi người chúng con phải bày tỏ lòng tôn kính bằng sự ngoan ngoãn và vâng phục chân thành đối với các bậc sinh thành. Bao lâu còn chung sống với cha mẹ, con cái phải luôn giữ mọi điều cha mẹ dạy, vì ích lợi của mình và của gia đình. Khi trưởng thành, con cái vẫn phải tôn kính cha mẹ, sẵn sàng bàn hỏi và chấp nhận những lời khuyên đúng đắn của cha mẹ. Khi không còn chung sống với các ngài, con cái vẫn phải tôn kính cha mẹ, biết thăm nom, chăm sóc các ngài khi bệnh tật và biết hỏi chuyện khi các ngài gặp cô đơn, hoạn nạn. Đặc biệt vào những ngày lễ lớn, chẳng hạn ngày tết, con cái nên biết quy tụ về nhà cha mẹ, chúc tết cha mẹ và cùng ăn bữa cơm thân mật gia đình. Đối với những người đã qua đời, con cái phải biết “cầu nguyện” cho các ngài sớm hưởng nhan thánh Chúa.

Thế nhưng, lạy Chúa, xã hội phát triển, đời sống hưởng thụ ngày càng cao, đồng tiền chiếm vị thế cao trong xã hội, giá trị con người được đánh giá bằng nấc thang vật chất, đời sống nhân bản của con người ngày càng xuống dốc đã làm không ít người con quên dần và xem thường việc hiếu thảo với cha mẹ. Trên báo công an những số gần đây đăng rất nhiều vụ án tệ nạn xã hội xảy ra ở trẻ vị thành niên. Họ đã không nghe lời khuyên của các bậc cha mẹ, bỏ học mà “lao vào” những lối ăn chơi trác táng. Hoặc có những người con coi việc chăm sóc cha mẹ là một gánh nặng, chỉ chu cấp vật chất cho các ngài mà không quan tâm hỏi thăm khi các ngài cô đơn, bệnh tật, vì họ cho rằng việc chăm sóc các ngài đã có người giúp việc lo. Thậm chí có những người con lừa gạt cả cha mẹ, khuyên cha mẹ bán hết nhà cửa về ở cùng, lấy tiền của cha mẹ làm ăn. Ban đầu con cái còn vui vẻ với cha mẹ nhưng sau một thời gian làm ăn thua lỗ thì sinh ra gay gắt với cha mẹ, xem cha mẹ là “của nợ”, khinh thường cha mẹ. Và còn đau lòng hơn nữa cho các bậc sinh thành phải ngậm đắng nuốt cay khi có những người con nhẫn tâm đùn đây nhau trong việc chăm sóc bố mẹ.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,

Chúa đã dạy chúng con phải yêu mến Chúa và yêu thương tha nhân. Xin cho chúng con ý thức được lời Chúa dạy, ý thức được bổn phận làm con, biết tôn kính Chúa đồng thời cũng biết thảo kính với ông bà cha mẹ còn sống cũng như đã qua đời với một tâm hồn chân thành và vui tươi. Trong năm mới này, xin Chúa ban cho ông bà, cha mẹ chúng con được mạnh khỏe và tìm được niềm vui trong cuộc sống. Còn những người đã qua đời, xin Chúa ban cho các ngài sớm được hưởng nhan thánh Chúa. Amen.

Vinh sơn Ngô Đức Duy,OP

CON ĐƯỜNG TU ĐỨC

 

THỰC HÀNH CHỚ KHÔNG PHẢI LÝ THUYẾT

 

 

(Mc 8,34-9,1)

 

Trong những ngày cuối năm, mỗi người chúng ta đều được Chúa kêu mời hãy nhìn lại chính mình trong thời gian một năm qua, và hãy tự đánh giá chính mình.

 

Nhìn thấy rõ hình ảnh của mình, đó là công việc không dễ. Đánh giá chính mình, đó là công việc càng không dễ. Vì thế, để giúp cho chúng ta biết nhìn rõ chính mình và đánh giá chính mình, tôi đã tâm sự với Chúa Giêsu. Tôi hỏi Người xem : Khi Người nhìn chúng ta thì Người nhìn lãnh vực nào hơn hết, và khi Người đánh giá mỗi người chúng ta thì Người đánh giá theo yếu tố nào hơn hết. Trong Phúc Âm, và qua Phúc Âm Chúa đã trả lời tôi : Khi Chúa nhìn một người thì Chúa nhìn trên lãnh vực việc làm là quan trọng hơn hết, và khi Chúa đánh giá một người thì Chúa căn cứ vào việc làm như là một tiêu chuẩn quan trọng hơn hết. Việc làm chớ không phải lý thuyết , đó là điều Chúa nhắn nhủ chúng ta khi chúng ta kiểm điểm lại chính mình.

 

Quan điểm trên đây, quan điểm nhấn mạnh đến việc làm, việc làm đúng, việc làm tốt là quan điểm rất rõ ràng trong Phúc Âm. Thí dụ như lời Chúa phán : “Ai nghe lời Ta mà tuân giữ lời Ta, thì giống như người xây nhà trên núi. Dù mưa lụt gió lớn, nhà đó sẽ vững vàng. Còn trái lại, người nào nghe lời Ta, hiểu lời Ta nhưng không làm theo lời Ta, thì giống như một người xây nhà trên cát, sớm muộn cũng đổ thôi ”. Chúa nhấn mạnh đến việc làm, đến thực hành, chớ không phải lý thuyết.

 

Rồi nơi khác Chúa nói : “Không phải ai tuyên xưng: Lạy Chúa, lạy Chúa Trời tôi, là sẽ được vào Nước Trời, nhưng chỉ ai thực hiện lời Chúa dạy sẽ được vào Nước Trời ”. Nghĩa là Chúa nhấn mạnh đến việc làm.

 

Nơi khác Chúa nói : “Ai tiếp nhận một đứa nhỏ, người hèn yếu nhất trong các con là tiếp nhận Cha ”. Tiếp nhận đó là việc làm. Nghĩa là Chúa nhấn mạnh đến việc làm.

 

Rồi nhất là ngày phán xét, Chúa nhấn mạnh đến việc làm : “Khi Ta đói, ai đã cho ăn; khi Ta khát, ai đã cho Ta uống. Những người đó hãy lên trời với Ta. Còn khi Ta đói, ai đã không cho Ta ăn, khi Ta khát ai đã không cho Ta uống. Những người đó sẽ phải xuống hỏa ngục”. Nghĩa là Chúa nhấn mạnh đến việc làm.

 

Như vậy là rất rõ, quan điểm của Chúa khi nhìn đến một người, đánh giá một người, là để ý đến lãnh vực hành động , là để ý đến việc làm cụ thể .

 

Rồi khi đưa ra hình ảnh người mục tử, Chúa Giêsu cũng đưa ra những việc làm. Hơn một tuần nay tôi để ý đến hình ảnh người mục tử của Chúa Giêsu qua Phúc Âm. Ngày thứ hai vừa rồi, Phúc Âm nói đến việc Chúa Giêsu tranh luận với những người biệt phái; Phúc Âm ngày thứ ba tả việc Chúa hội nhóm nhỏ mười hai để đào luyện việc làm; Phúc Âm ngày thứ tư thì kể ra việc Chúa chữa bệnh, đi thăm những bệnh nhân. Đó là những việc làm. Rồi tiếp đó, hôm qua, Chúa đi vào các làng mạc, các xóm nhỏ để thăm người ta. Đó là những việc làm. Còn hôm nay, Phúc Âm nói đến việc Chúa quy tụ dân chúng lại. Đó cũng là việc làm. Chúa nhấn mạnh đến việc phải làm. Hình ảnh của một người theo Chúa, hình ảnh của một người môn đệ

 

Chúa là hình ảnh người làm những việc làm tốt.

 

Qua những lời tôi vừa gợi ý trên đây, anh chị em đã thấy chúng ta phải đánh giá chúng ta trong năm qua bằng những việc chúng ta đã làm. Việc tốt, việc bổn phận, việc cho Chúa, việc cho người khác. Riêng trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa dạy chúng ta làm một việc, mà lát nữa trong kinh Tin Kính chúng ta sẽ tuyên xưng. Đó việc chúng ta phải theo Đức Kitô, phải theo đến cùng, phải theo một cách dứt khoát, dù phải từ bỏ, dù phải vác thánh giá mình, dù bị người ta chê cười, dù phải hy sinh mạng sống. Tất cả chỉ vì coi Đức

Kitô là cùng đích, là hạnh phúc, là lẽ sống của mình.

 

Lúc nãy, ông đại diện giáo dân đã cám ơn cha sở và những người cộng tác với cha sở, vì đã giúp cho con em trong họ đạo hiểu biết giáo lý. Đó cũng là tốt thôi. Nhưng hiểu biết mà thôi không đủ, cái quan trọng là việc làm, là thực hành điều mình hiểu. Chúa nhấn mạnh đến việc làm và phán xét qua việc làm. Chúa đánh giá qua việc làm, chớ không phải đánh giá qua lý thuyết, những gì chúng ta hiểu.

 

Trong thánh lễ hôm nay chúng ta cầu xin Chúa giúp cho chúng ta, nhất là con em chúng ta được biết làm những việc tốt và thực hiện lời Chúa. Chúng ta cũng tạ ơn Chúa vì trong một năm qua chúng ta đã cố gắng làm tốt những điều Chúa dạy.

 

 Xin Chúa Thánh Linh giúp cho chúng ta biết thực hiện những điều Chúa dạy chúng ta trong thánh lễ hôm nay. Amen.

 

 

ĐGM GB Bùi Tuần

CON ĐƯỜNG TU ĐỨC

 

Hội Ðồng Giáo Hoàng "Ðồng Tâm" họp báo giới thiệu Sứ Ðiệp Mùa Chay năm 2007 của ÐTC Bênêđitô XVI.

Tin Vatican (Vat. Apic. 13/02/2007) - Lúc 11 giờ 30 phút trưa thứ Ba, ngày 13 tháng 2 năm 2007, Ðức Tổng Giám Mục Paul Josef Cordes, chủ tịch Hội Ðồng Giáo Hoàng "Ðồng Tâm" (Cor Unum), đã chủ toạ cuộc họp báo tại Phòng Báo Chí Toà Thánh, để giới thiệu Sứ Ðiệp Mùa Chay năm 2007 của ÐTC Bênêđitô XVI, theo chủ đề: "Họ sẽ nhìn vào Ðấng họ đã đâm thâu qua" (Gn 19,37). Cùng hiện diện và phát biểu giới thiệu Sứ Ðiệp, còn có Ðức Cha Karel Kasteel, Tổng Thư Ký, Ðức Ông Giovanni Pietro dal Toso, Phó Tổng thư ký, của Hội Ðồng Toà Thánh Ðồng Tâm, và Linh Mục Oreste Benzi, Chủ Tịch Hội "Gioan 23".

Nội dung chính của Sứ Ðiệp trình bày về Tình yêu của Thiên Chúa Cha đối với con người, một tình yêu được mạc khải nơi Chúa Kitô chịu đóng đinh.

Ðược biết nội dung "Tình Yêu Thiên Chúa" đã được ÐTC trình bày trong Thông Ðiệp đầu tiên của ngài "Thiên Chúa là Tình Yêu".

ÐTC mời gọi các tín hữu hãy sống mùa chay như là "thời gian thánh thể", trong đó, nhờ đón nhận tình yêu thương của Chúa Giêsu, mà chúng ta học biết phổ biến tình yêu Chúa quanh chúng ta, trong từng cử chỉ từng lời nói.

Việc "chiêm ngắm Ðấng đã bị đâm thâu qua", sẽ thôi thúc chúng ta đến độ chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận anh chị em, vừa đồng thời thấy được những vết thương gây ra cho phẩm giá con người. Việc chiêm ngắm này sẽ thôi thúc những người kitô chiến đấu chống lại mọi hình thức khinh thường sự sống và khai thác con người, và an ủi những thảm cảnh của sự cô đơn và bị bỏ rơi của biết bao người.

ÐTC nhấn mạnh rằng, đối với mỗi người kitô, mùa chay là dịp để cảm nghiệm lại một lần nữa tình yêu thương của Thiên Chúa, Ðấng trao ban chính mình cho chúng ta trong Chúa Kitô; đây là tình yêu mà mỗi ngày chúng ta đến phiên mình cần trao ban lại cho người lân cận, nhất là cho những ai đau khổ nhất và cần được trợ giúp nhất. Chỉ bằng cách này mà người kitô sẽ có thể tham dự vào niềm vui của Lễ Phục Sinh.

Mùa Chay năm 2007 bắt đầu với thứ tư lễ Tro ngày 21 tháng 2 năm 2007, và kéo dài 40 ngày, cho đến ngày 8 tháng Tư năm 2007, Chúa Nhật Lễ Lá. Thời gian 40 ngày Mùa Chay nhắc nhớ lại 40 ngày Chúa Giêsu sống trong sa mạc vào khởi đầu cuộc đời công khai rao giảng Tin Mừng.

Và hằng năm, dịp Mùa Chay, mỗi vị Ðức Giáo Hoàng đều công bố một sứ điệp, để giúp các tín hữu sống hữu hiệu Mùa Chay. Năm 2006, Sứ Ðiệp Mùa Chay có chủ đề là: Nhìn thấy dân chúng kéo đến, Chúa Giêsu động lòng thương xót họ." (Mt 9,36)

(Ðặng Thế Dũng)

 

Nội dung cuộc Phỏng vấn Đức Hồng Y GB. Phạm Minh Mẫn trên mạng lưới Vietcatholic

 

Bankok- Thái Lan: Linh Mục Trần Công Nghị, Giám Đốc Vietcatholic đã mở cuộc phỏng vấn với Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn tại Thái Lan, cuộc phỏng vấn đã được cho lên mạng Vietcatholic, nhưng vì có nhiều nơi không nghe được, cho nên toàn văn cuộc phỏng vấn đã được đánh máy lại. Sau đây là toàn văn cuộc phỏng vấn.

LM Trần Công Nghị: Kính thưa quí vị thính giả ngày hôm nay rất được hân hạnh có Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, Tổng Giám Mục Sài Gòn đã đang tham dự Khóa Giám Mục Á Châu về Công Lý và Hòa Bình. Kính thưa Đức Hồng Y, nhân dịp này chúng con muốn hỏi Đức Hồng Y một vài điểm về vấn đề tương quan giữa Vatican và nước Việt Nam nhân ngày 25/1/2007, thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã gặp Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI. Đức Hồng Y có thể cho chúng con một vài nhận định về cuộc gặp gỡ này, thưa Đức Hồng Y?

ĐHY Phạm Minh Mẫn: Tôi nghĩ cuộc gặp gỡ này là một biến cố như một thời điềm loan báo cho chúng ta hay cái tin vui nàỵ Tin vui thứ nhất là Việt Nam và Vatican đang đồng hành trên một con đường, con đường đó là con đường đối thoại và hợp tác nhằm phục vụ cho sự sống phẩm giá của mọi người đặc biệt là của người Việt Nam trên đất nước Việt Nam cũng như các nơi khác. Tin vui thứ hai là cả đôi bên đều bày tỏ thiện chí và quyết tâm tiến tới bang giao bình thường cũng nhằm phục vụ tốt hơn cho dân tộc Việt Nam cũng như cho dân Chúa tại Việt Nam.

LM Trần Công Nghị: Thưa Đức Hồng Y, giả sử trong tương lai có bang giao với Việt Nam thì có lợi ích như thế nào cho người Công Giáo Việt Nam nói riêng và cho dân tộc Việt Nam nói chung ?

ĐHY Phạm Minh Mẫn: Nhìn lại quá khứ 30 thập niên qua, thì trong 2 thập niên đầu giáo hội Công Giáo Việt Nam được coi như một thế lực chống nhà nước Việt Nam, nhưng bắt đầu từ thập niên thứ 3 từ khi Việt Nam cố thoát khỏi bị cô lập để hòa nhập vào thế giới toàn cầu hóa thì Giáo Hội Việt Nam được nhìn như một cộng tác viên nhằm phát triển vững bền đất nước của mình, thăng tiến đời sống gia đình và xã hội, Trong bối cảnh này tôi hy vọng rằng con đường đối thoại và hợp tác sẽ đưa Việt Nam và Vatican sớm vượt qua những tồn tại cần được giải quyết và cũng sớm tiến đến bang giao bình thường hơn, nhờ đó mà mọi người đặt biệt là Giáo Hội Việt Nam sẽ có cơ hội nhiều hơn để góp phần của mình vào công việc xây dựng đất nước, cũng như xây dựng Giáo Hội Việt Nam.

LM Trần Công Nghị: Kính thưa Đức Hồng Y vào tháng 11 vừa qua thì Ban Thường Vụ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam có gặp chính quyền Hà Nội và bày tỏ những khó khăn giữa Giáo Hội và chính quyền cần được giải quyết, đồng thời qua cuộc gặp gỡ tại Vatican thì sau đó Tòa Thánh Vatican cũng đưa ra một bản thông cáo nói rằng đây là bước tiến đầu tiên thôi, và còn cần phải đối thoại nữa. Thưa Đức Hồng Y, Đức Hồng Y có thể cho chúng con biết những khó khăn gì đối với sự tương quan giữa Giáo Hội và chính quyền và sự đối thoại để có thể đưa đến sự sống hòa bình tốt đẹp hơn và lợi ích cho cả chính quyền cũng như cho cả giáo hội, thưa Đức Hồng Y?

ĐHY Phạm Minh Mẫn: Trong tháng 11 vừa qua, tôi cùng với 10 Giám Mục Việt Nam đến chào thăm và trao đổi với tân Chủ Tịch nước Việt Nam Nguyễn Minh Triết, chúng tôi bày tỏ những quan điểm của mình như thế này: quan điểm của chúng tôi về tự do tôn giáo, bày tỏ quyền sở hữu của người dân cũng như của Giáo Hội và cái thứ ba là quan điểm của Giáo Hội trong việc góp phần xây dựng đất nước, đặc biệt trong lãnh vực giáo dục và y tế. Cũng có đi vào những chi tiết cụ thể và ông Chủ Tịch Nước cũng đã lắng nghe và ghi nhận, cuối cùng thì ông nói rằng Nhà Nước Việt Nam sẽ nghiên cứu và từng bước giải quyết nguyện vọng chính đáng.

LM Trần Công Nghị: Như vậy đó cũng là hy vọng và thao thức của Giáo Hội Việt Nam, vì từ trước tới nay hầu như trong tất cả các nước Á Châu nơi nào có Công Giáo thì cũng lo đến các vấn đề cứu tế xã hội, về nhà thuơng về vấn đề giáo dục, vấn đề giúp đỡ cho người nghèo, những người giúp đỡ cho bệnh AIDS,. Thế thì tương quan đó Đức Hồng Y cho rằng đây là những điểm mà nếu Giáo Hội được phép thực thi thì sẽ mang lại lợi ích rất nhiều cho công dân Việt Nam, có đúng như vậy không thưa Đức Hồng Y. Xin Đức Hồng Y có thể cho chúng con một vài thí dụ cụ thể về các dự án của Đức Hồng Y về chương trình giáo dục và xã hội?

ĐHY Phạm Minh Mẫn: Hơn 2 năm về trước thì nhà nước có mời Giáo Hội chăm sóc cho người mắc bịnh HIV/ AIDS, rồi trong thời gian gần đây cũng có mời trong việc hợp tác chăm sóc cho những người khuyết tật tại Trung Tâm sẽ được hình thành nay mai, rồi về phía Giáo Hội thuộc Thành Phố HCM thì tôi cũng đã bày tỏ muốn hình thành một Trung Tâm, để nơi đó chăm sóc cho các trẻ em phụ nữ nhiễm HIV, ý tôi là muốn chăm sóc cho họ được khoẻ mạnh hơn, giáo dục và dạy nghề, tại điều kiện để cho họ hành nghề, vì trong xã hội hiện tại thì những người nhiễm HIV này, đã bị loại trừ ra khỏi trường học, loại trừ ra khỏi công ăn việc làm, rồi không ai cấm cả đi nhà thờ nhưng mà khi đi nhà thờ những người lớn tuổi biết đến họ đã nhiễm HIV thì cũng đều xa lánh tránh né. Do đó họ bị cô lập hoàn toàn, tôi muốn xây dựng một xã hội để mà dần dần mọi người có thể chấp nhận họ.

LM Trần Công Nghị: Cám ơn Đức Hồng Y đã chia sẻ những thao thức và những quan tâm. Một điểm khác là với tư cách Chủ Tịch Ủy Ban Di Dân thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, trước đây Đức Hồng Y cũng đã chia sẻ với chúng con về vấn đề di dân không phải chỉ đi nước ngoài, nhưng mà ngay chính nội địa cũng có rất nhiều người di dân, từ miền quê tới thành phố, bởi vì nghèo đói cho nên phải đi kiếm. Xin Đức Hồng Y có thể chia sẽ những khó khăn của người di dân Việt Nam tại nội địa như thế nào, Giáo Hội có phương hướng nào để giúp đỡ họ không?

ĐHY Phạm Minh Mẫn: Riêng tại Sài Gòn, có khoảng 2 triệu người di dân đến từ khắp nơi trên đất nước, đa số 2/3 là từ miền Bắc vào, trong số 2 triệu người này thì khoảng 1 triệu người có công ăn việc làm còn khoảng gần 1 triệu người thì không có công ăn việc làm, cho nên các tệ nạn nó phát xuất từ đó. Tôi đã có lần trình bày với các vị lãnh đạo trong chính quyền Thành Phố về vấn đề này. Các vị cũng nói rằng chúng tôi không thể nào làm hết mọi việc. Tôi đã đặt vấn đề, tại sao các tổ chức xã hội, tôn giáo không có thể góp phần trong công việc này, thì chưa có câu trả lời, thế nhưng đối với người Công Giáo di dân, thì họ quy tụ đến nhà thờ, dần dần chúng tôi cũng nhờ qua trung gian những người đến nhà thờ để tiếp xúc với những người chưa có công ăn việc làm, đến những người chưa đến nhà thờ, qui tụ họ lại để tổ chức thành nhóm, để họ sinh hoạt chung với nhau, nhóm đó sẽ trở thành chỗ dựa cho những người xa nhà, xa quê hương, xa gia đình, chỗ dựa tình cảm, chỗ dựa cho đời sống đạo và đời sống đời nữa. Tại Thành Phố có những Trung Tâm qui tụ rất lớn tại 3,4 nơi, mỗi ngày càng qui tụ nhiều hơn. Tôi đã qui tụ lại và trước tiên là báo cáo tình hình, nhu cầu và nguyện vọng của họ, tôi đã gặp gỡ có lần qui tụ hơn 1000 người, có lần 3 hay 4000 người. Nói chung họ đã nói lên tình trạng của họ, ở đâu có khu công nghiệp thì ở đó có di dân, ở đâu có di dân thì có mấy cái tiêu cực này: thứ nhất là nạn ly dị đếm không xuể, rồi đến phá thai cũng đếm không xuể, kế tiếp là HIV và Siđa. Để giúp cho các bạn đó làm sao để họ phòng chống và giúp nhau, cho nên chính mình giúp đỡ họ để họ giúp nhau phòng chống vấn đề này và góp phần chặng đứng dịch HIV trong giới của họ. Ngoài ra còn giúp đỡ về phần tâm linh, tình thần và vật chất khác nữa. Cho nên những người nào đến qui tụ tại nhà thờ, trong khuôn viên nhà thờ thì những dịp này như trong tuần này là tuần di dân thì cũng đã qui tụ đến 5000 người. Ngày cuối cùng vào Chủ Nhật tuần qua thì tôi đã đến sinh hoạt với họ, thêm những lời an ủi khuyến khích nhắc nhở họ, qua lời cầu nguyện với Thiên Chúa và giúp đỡ nhau.

LM Trần Công Nghị: Kính thưa Đức Hồng Y, một vấn đề khác mà Giáo Hội cũng đang quan tâm là đất đai, các cơ sở cũ. Từ trước đến nay Giáo Hội đã cho mượn, và để tiến trình những công tác mục vụ tông đồ của mình theo kinh nghiệm của Đức Hồng Y, qua sự giao tế của Đức Hồng Y với chính quyền qua sự quen biết với ông Chủ Tịch Nguyễn Minh Triết, Đức Hồng Y đã xin lại một số cơ sở. Trong tương lai những cơ sở của Giáo Hội có thể được hoàn lại như thế nào để Giáo Hội cùng cộng tác để góp phần giúp đỡ cho công dân, thưa Đức Hồng Y?

ĐHY Phạm Minh Mẫn: Cụ thể thì Hội Đồng Giám Mục cũng đã trao đổi với những văn bản cụ thể, tôi đã bắt đầu đến những chuyện cụ thể và dễ giải quyết. Thí dụ như đã nói với các vị đề nghị trao lại miếng đất của Tòa Khâm Sứ Hà Nội rồi đến đất La Vang. Về đất La Vang thì có hai mươi mấy mẫu và tỉnh họ đã lấy 20 mẫu và đề nghị giao lại, tại miền Nam thì có Giáo Hoàng Học Viện (tại Đà Lạt). Ông Chủ Tịch cũng đã hứa là từng bước sẽ giải quyết, nhưng có vấn đề là chỗ này, thí dụ nơi đó chưa có làm gì thì dễ giải quyết, nhưng nếu tại nơi đó đã làm cơ sở gì đó thì vấn đề là phải di dời đi chỗ khác rồi mới có thể trả lại được, cho nên nó lâu hơn.

LM Trần Công Nghị: Câu hỏi cuối cùng là trong thời gian gần đây, chính quyền cũng dễ dãi trong việc Giáo Hội Việt Nam cử người đi tham dự những Hội Nghị Quốc Tế như thế này và Đức Hồng Y đã đi nhiều nơi khác nhau. Chính quyền cũng dễ dãi để cho các Giám Mục, Tu Sĩ, Giáo Dân đi tham dự các Hội Nghị, Khi Đức Hồng Y sang Thái Lan tại đây, thì Thái Lan có khoảng chừng trên dưới 300, 000 tín hữu Công Giáo, thế nhưng những cơ sở tại đây ở Bangkok, tại Chang-mai cũng như tại Tay-ya đã tổ chức những hội nghị như thế này, riêng Đức Hồng Y có chân trong Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu, họ cũng đã nhờ Đức Hồng Y là có thể tổ chức Đại Hội như thế này không? Thế thì Đức Hồng Y có dự định trong tương lai sẽ tổ chức để mời và tổ chức những cuộc đại hội lớn như thế này không, thưa Đức Hồng Y?

ĐHY Phạm Minh Mẫn: Năm ngoái, vị thư ký của Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu đã nhắn với tôi 2, 3 lần, nhắn Giám Mục này đến Giám Mục kia hoặc nhắn đến các Linh Mục mà họ gặp, để xem có thể tổ chức Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu vào năm 2008 tại Việt Nam hay không. Tôi đã suy nghĩ và trao đổi với Đức Cha Nguyễn Văn Hòa, Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Như Thể, rồi mới qua đây, ông Thư Ký đã gặp tôi và nhắc lại chuyện đó. Tôi nói rằng là bây giờ chúng tôi chưa c có điều kiện sẵn sàng, cho nên họa may mới có thể tổ chức Đại Hội vào năm 2012. Tôi đã có bàn với Đức Cha Chủ Tịch và Đức Tổng Thể, đất La Vang không chỉ để xây dựng nơi hành hương, nhưng cũng có thể xây dựng để tụ tập, trao đổi với nhau không chỉ riêng cho đất nước Việt Nam của mình, mà còn cho các nước Á Châu xung quanh này nữa. Tôi nghĩ là với ý thức, góp phần của nhiều người đặc biệt là đồng bào Công Giáo Việt Nam của mình trong cũng những ngoài nước muốn đóng góp cho Giáo Hội Việt Nam. Thì tôi nghĩ là có thể hình thành chuyện đó được.Hy vọng đến năm 2012 thì có thể tiếp đón các đại diện các Hội Đồng Giám Mục Á Châu, giống như nhà nước Việt Nam cũng đã mở ra và đã mời cả đến mấy ngàn người trong đại hội APEC. Đối với chúng tôi, tôi nghĩ về phía chính quyền thì sẽ không có vấn đề gì, chỉ có vấn đề đối với chúng ta là phải có lực để tổ chức như thế nào, không chỉ riêng về cơ sở vật chất nhưng còn phải cần đến nhân sự nữa. Nhân sự phải biết tiếp đón, tiếng nói của người ta để giao tiếp, tiếp đón. Nhân sự đâu phải 1 hay 2 người nhưng phải cần nhiều người, do đó phải cần thời gian thì chúng ta cũng có thể chuẩn bị được, để bắt kịp đà tiến với các Giáo Hội giống như Việt Nam bắt theo đà tiến của các nước xung quanh, thì Giáo Hội Việt Nam cũng dần dần bắt kịp đà tiến của các Giáo Hội xung quanh mình.

LM Trần Công Nghị: Đức Hồng Y cũng mong muốn, dĩ nhiên là đối với Giáo Hội Á Châu, thì Giáo Hội Việt Nam cũng luôn luôn nói là Giáo Hội đứng hàng thứ 2 về dân số tín hữu Công Giáo và Giáo Hội cũng nức nở để tổ chức một cái gì đó để họ viếng thăm mình. Chắc chắc khi Đức Hồng Y trở về thì sẽ có một chương trình cụ thể, thì dụ như tại La Vang hay tại một nơi nào đó mà cần đến sự hỗ trợ của người tín hữu Công Giáo trong cũng như ngoài nước. Có lẽ đây cũng là vấn đề tinh thần như Đức Hồng Y đã đề cập tới, vấn đề vật chất cũng rất quan trọng và chắc chắn Đức Hồng Y sẽ đề cập tới lên Hội Đồng Giám Mục Việt Nam phải không, thưa Đức Hồng Y?



ĐHY Phạm Minh Mẫn: Những dự án cụ thể như kinh phí, chi phí thì sẽ đi vào chi tiết chuyên môn hơn sau này. Bây giờ nó là chủ trương chung như thế.

LM Trần Công Nghị: Chúng con chân thành cám ơn Đức Hồng Y đã chia sẻ những kinh nghiệm, thao thức mong chờ của Đức Hồng Y cũng như của Giáo Hội Việt Nam. Chúng con cám ơn Đức Hồng Y đã cho chúng con được tháp tùng và hiện diện trong những ngày qua, đó cũng là niềm hãnh diện cho chúng con và chiều nay kính chúc Đức Hồng Y thượng lộ bình an trở về Việt Nam.

ĐHY Phạm Minh Mẫn: Cám ơn Cha, cám ơn quí vị thính giả đã theo dõi.

Ngọc Loan

XUÂN ĐINH HỢI 2007

 

NGUỒN GỐC CHỮ SONG HỈ

Trong năm, cứ vào tiết trời Thu, Đông và Xuân là những thời gian quan trọng để trai gái xây dựng tổ ấm hạnh phúc gia đình. Đây là thời tiết đẹp để con người dễ gần nhau hơn, tạo nên sự hấp dẫn riêng về tâm sinh lý. Còn vào tiết trời mùa hè, thì việc cưới xin  ít hơn, bởi cái nóng nực, rát bỏng. Thời tiết khắc nghiệt gây ra cảm giác khó chịu, làm vơi đi sự hoan hỉ, vui mừng. Bắt đầu từ lễ dạm ngõ, d?m hỏi, tới cưới xin của người Việt Nam chúng ta, chữ Song Hỉ được dùng nhiều nhất. Nó được kẻ vẽ in ấn cắt dán cả lên những quả cau, phong bánh, thiếp mời… Ai cũng hiểu nôm na đó là hai chữ vui mừng, song nguồn gốc của nó thì không phải ai cũng rõ. Vậy đây là nguồn gốc của chữ song hỉ?

SONG HỈ xuất hiện từ đời nhà Tống (Trung Quốc) do một danh sĩ nổi tiếng sau trở thành tể tướng của vua Tống Thần Thân và Vương An Thạch đặt ra (ghép hai chữ hỉ lại) để nói về chuyện hai lần gặp may r?t lớn lao của mình.

Vương An Thạch là người nước Lỗ cùng quê với Khổng Tử, học rất giỏi. Lần lên kinh đô cách quê chừng 200 dặm để dự thi, ông đi qua một vùng trù phú. Ở đó một nhà giàu tầm cỡ phú gia địch quốc, đang kén chồng cho con gái rất xinh đẹp. Phú ông là người có học nên kén rể bằng cách thách đố, y muốn tìm rễ giàu chữ làm hiền sĩ chứ không phải lắm của nhiều tiền. Nhân trong nhà có bộ đèn kéo quân lớn đẹp. Ông viết vế đối: Mã Tẩu đăng, đăng tẩu mã, đăng tức, mã đình bộ. Nghĩa là: Ngựa chạy theo đèn, đèn chạy theo ngựa, đèn tắt, ngựa dừng chân.

Vương An Thạch nghĩ mãi không đối được, tiếp tục lên kinh thi. Vào thi, ông trúng tuyển thám hoa. Khoa ấy không lấy trạng nguyên, bảng nhãn, nên ông được coi là đỗ thủ khoa. Nhà vua cho vời ông vào triều để biết mặt và thử tài thêm. Thấy ở sân rồng có một lá cờ lớn, trên có thêu một con hổ bay. Nhà vua ra cho ông một vế đối: Hổ phi kỳ, kỳ phi hổ, kỳ quyển, hổ ?n.

Nghĩa là: Hổ bay theo cờ, cờ bay theo hổ, cờ cuốn, hổ ẩn mình. Nghe xong, Vương An Thạch nghĩ ngay đến vế của phú ông thấy đối rất chỉnh, bèn viết và dâng lên vua.

Vua thấy quan tân khoa ứng đối nhanh, vế đối rất chỉnh, chữ lại đẹp nên rất vui, khen và ban thưởng hậu cho ông.

Trên đường vinh qui bái tổ, qua nhà phú ông. Vương An Thạch xin vào ra mắt trình ra vế đối của nhà vua khi trước, đối lại.

Phú ông phục tài, gả con gái yêu cho quan tân khoa. Như vậy là Vương An Thạch vừa thi đỗ cao, lại vừa lấy được vợ đẹp. Chàng rể mới viết lại chử h? thành chữ Song Hỉ rất to trình lên nhạc gia và gửi về gia đình mỗi nhà một bản. Thông báo lại hai việc quá may mắn, tốt lành là đại đăng khoa (thi đỗ) và tiểu đăng khoa (lấy vợ).

Chữ Song Hỉ được dùng từ thuở ấy.

Hiện tại ở Việt Nam,  các đám cưới thường được trang trí, dùng  chữ Song Hỉ.

 

MỘT SỐ VỊ THẦN TÌNH ÁI TRONG TRUYỀN THUYẾT TRUNG HOA

NỮ OA – THẦN MAI MỐI

Nữ Oa là một vị nữ thần được sùng bái từ rất lâu đời ở đất nước Trung Hoa. Bà Nữ Oa được coi là vị thần thuỷ tổ của loài người đã sáng tạo ra thế giới, vạn vật. Trong truyền thuyết Trung Hoa, Nữ Oa có thể hoá sinh ra vạn vật, mà kỳ tích nổi tiếng nhất của bà là luyện đá vá trời, và nặn đất tạo ra loài người.

Trước khi tạo ra loài người, Thần Nữ Oa đã tạo ra các loài động vật: Ngày 1 tháng Giêng tạo ra gà, mùng 2 tạo ra chó, mùng 3 tạo ra dê, mùng 4 tạo ra lợn, mừng 5 tạo ra trâu, mùng 6 tạo ra ngựa, đến mùng 7 tháng Giêng mới nhào đất và nước tạo ra con người (nhân vật). Nghĩ đến con người phải được truyền nối đời đời, bà bèn tạo lập ra các chế độ hôn phối, kết hôn giữa nam và nữ để có thể sinh con đẻ cái, vì vậy Nữ Oa trở thành bà mối đầu tiên trên thế gian, được mọi người tôn thờ là vị tổ thần mai mối, gọi là “Cao Môi”. Người Trung Quốc dựng miếu thờ thần hôn nhân này bằng lễ thái lao (giết 3 con vật lợn, trâu, dê để cúng tế). Đây là lễ tế cao nhất trong các hoạt động tế tự từ xưa. Những ngôi miếu Cao Môi hiện vẫn còn ở nhiều nơi như Lạc Ninh – Sơn Đông, Hà Tân – Sơn Tây, Vu Đông – Giang Tây… Sự xuất hiện của thần Nữ Oa cho thấy dưới thời thị tộc mẫu hệ, phụ nữ là trung tâm của việc hôn nhân và nữ tộc trưởng nắm việc hôn nhân của toàn bộ tộc.

THẦN MẶT TRĂNG

Thần Mặt trăng là một trong những vị thần tiên được lưu truyền rộng rãi nhất ở Trung Hoa, còn được gọi với những tên khác như: Nguyệt Quang Bồ Tát… việc sùng bái Thần Mặt Trăng đã có từ rất xa xưa, ở nhiều nước khác trên thế giới cũng có những hiện tượng như vậy. Mặt Trăng đem tới cho người ta ánh sáng trong đêm tối, ánh trăng lung linh huyền ảo thường khơi gợi nhiều tưởng tượng. “Hằng Nga lên trời” là một trong những câu chuyện của trí tưởng tượng đó, theo truyền thuyết Hằng Nga (hay Thường Nga) là vợ của Hậu Nghệ, vì Hậu Nghệ bắn rơi 9 mặt trời nên phải tội với Thượng đế, bị đày xuống nhân gian. Sau khi Hậu Nghệ được uống thuốc trường sinh của Tây Vương Mẫu, Hằng Nga cũng uống trộm thuốc trường sinh của Hậu Nghệ, bay lên trời, ở trong cung trăng, trở thành Nguyệt Thần. Các sách cổ như “Sơn Hải Kinh”, “Sưu thần ký”… đều có chép chuyện này.

Sau đó, Nguyệt Thần được rộng rãi toàn nhân dân sùng bái, trai gái yêu đương thường cùng thề nguyền dưới trăng, bái cầu Nguyệt Thần. Những người yêu nhau mà phải chia ly thường cầu Nguyệt Thần phù hộ để được đoàn viên. Nguyệt Thần được coi là vị thần phù hộ và minh chứng cho tình yêu nam nữ.

THẦN NGƯU LANG – CHỨC NỮ

Giai thoại về đôi tình nhân là Ngưu Lang – Chức Nữ là một trong 4 truyền thuyết ca tụng tình yêu nam nữ nổi tiếng nhất của Trung Hoa (Ba truyền thuyết còn lại là Hằng Nga, Hậu Nghệ, Mạnh Khương Nữ và Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài).

Ngưu Lang – Chức Nữ bắt nguồn từ việc tôn thờ các vì sao thời cổ đại ở Trung Hoa. Người ta đã nhân cách hoá các vì sao thành những con người, rồi lại thần hoá thành các vị thần tiên. Trung Quốc có rất nhiều vị thần kiểu này như: Nhị thập bát tú, Nam Tào, Bắc Đẩu, các vị thần Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Vũ…

Ngưu Lang tức sao Ngưu, hay Khiên Ngưu làngôi sao thứ hai trong chòm sao Huyền Vũ phương Bắc, một trong Nhị thập bát tú. Chức Nữ tức sao Thiên Tôn nằm ở phía Tây ngân hà, đối diện với sao Ngưu Lang. Từ rất lâu, trong “Kinh Thi” đã có ghi chép về hai ngôi sao Ngưu Lang, Chức Nữ, nhưng vẫn chưa có cốt truyện. Cho đến đời Hán mới có câu chuyện này. Sau thời Đông Hán thì câu chuyện tình yêu của Ngưu Lang – Chức Nữ được lưu truyền trong dân gian, cho rằng Chức Nữ là cháu của Ngọc Hoàng Thượng Đế, đã đem lòng yêu chàng trai chăn trâu (Ngưu Lang) ở dưới trần gian, hai bên bèn kết duyên chồng vợ sống với nhau rất hạnh phúc. Sau đó, Ngọc Hoàng biết chuyện, sai Vương Mẫu nương nương xuống trần gian bắt Chức Nữ về chịu tội. Ngưu Lang vô cùng đau khổ, nhờ con trâu giúp sức, đuổi theo lên trời, gần đuổi kịp thì bị Vương Mẫu dùng cây trâm trên đầu vạch một đường thành sông Ngân Hà ngăn cách. Ngưu Lang, Chức Nữ bị Ngân hà cách trở, chỉ biết đứng nhìn nhau qua sông mà khóc. Ngọc Hoàng biết chuyện thương tình, mới cho phép họ mỗi năm vào ngày mùng 7-7 được đàn quạ dùng đầu của mình bắc cầu cho đôi tình nhân được gặp nhau. Câu nói dân gian quen thuộc của người dân Việt xưa là “Quạ trọc đầu bắc cầu Ô Thước” giúp Ngưu Lang- Chức Nữ gặp nhau chính là do tích này. Có một điều lạ đó là vào thời điểm này hầu hết đàn chim quạ không hiểu lý do gì mà đầu con nào cũng bị rụng hết lông, gọi là quạ trọc đầu là vậy.

Sau này vào ngày 7-7 hàng năm đã trở thành một ngày lễ trong dân gian, gọi là “Thất xảo tiết” hay “Khất xảo tiết”. Những người phụ nữ thường đem kim chỉ ra để “khất xảo” – cầu xin Chức Nữ ban cho sự khéo léo, giỏi giang. Không những vậy, sau này người ta còn xin cả trí thông minh, sự giàu sang, phúc thọ… và đặc biệt là cầu xin tình duyên.

NGUYỆT HẠ LÃO NHÂN

Nguyệt hạ lão nhân là vị thần chuyên lo việc hôn nhân. Theo Thẩm Tam Bạch ghi trong sách “Phú sinh lục ký” thì vị thần này một tay cầm dây tơ đỏ, một tay chống cây gậy trên đầu có đeo sổ hôn nhân, sắc mặt như trẻ thơ mà tóc bạc trắng, đi lại giữa mịt mù không ra khói, không ra sương.

Người ta cho rằng Nguyệt lão là thần nhân duyên, chuyên se duyên cho các đôi trai gái. Ông lấy sợi dây đỏ buộc chân họ lại với nhau, đã buộc ai vào ai thì dù cách núi sông cũng đến được với nhau, còn nếu hai người không có dây đỏ buộc chân vào nhau thì có ở kề bên nhau cũng không nên duyên chồng vợ được.

Rất nhiều nơi ở Trung Quốc có đền Nguyệt lão. Trong Bạch Vân Am dưới núi Cô Sơn ở bên Tây Hồ – Hàng Châu có Nguyệt lão điện, thờ thần Nguyệt lão.

Trong hôn lễ ở Trung Quốc còn có phong tục buộc dây tơ hồng, hoặc đôi trai gái cầm một dải lụa đỏ đi vào phòng cưới… Tế thần Nguyệt lão (hay tế tơ hồng) cũng trở thành một nghi thức trong hôn lễ xưa.

 Lm Giuse Nguyễn Hữu An, sưu tầm

 

Đâu Là Niềm Hy Vọng Cho Thế Giới Hôm Nay ?

 

Trong những ngày cuối cùng của năm 2006 âm lịch, đây là dịp, là cơ hội thuận tiện để tôi nhìn lại, kiểm điểm bản thân trong suốt thời gian đã qua với những cái được và chưa được; đồng thời, hướng tới một năm mới cho niềm hy vọng mới. Tôi tự hỏi đâ u sẽ là niềm hy vọng cho tôi và làm sao tôi có thể đáp trả lại lời mời gọi : “Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của chúng ta” (1Pr 3,15b) ?

Trước thực trạng của đất nước và của thế giới, thiết nghĩ, để trả lời cho câu hỏi này quả thật không dễ dàng.


Thực trạng Việt Nam

Điểm lại những sự kiện trong năm qua tại Việt Nam, hẳn chúng ta khó mà quên được sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO), ngay sau đó Việt Nam lại tổ chức thành công hội nghị thưởng đỉnh Diễn Đàn Kinh Tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC) và nhiều thành công khác về đối nội cũng như đối ngoại. Bên cạnh n hững thành công rực rỡ đáng vui ấy, chúng ta cũng không khỏi nhức nhối, phẫn nộ, đau xót trước những tiêu cực trong giáo dục, xây dựng, y tế … ; những tệ nạn xã hội tràn lan, những thiên tai tàn phá thảm khốc cả về người lẫn của. Và đau lòng thay khi việt nam được xếp vào trong ba nước đứng đầu thế giới về tỉ lệ phá thai.


Thực trạng thế giới

Chúng ta đang đứng trong một kỉ nguyên được mệnh danh là toàn cầu hóa hay thời đại của văn minh trí tuệ. Và vì vậy, những sự kiện xảy ra mỗi ngày trên thế giới trong suốt năm qua chẳng có gì là lạ lẫm với chúng ta. Quả thực, biết bao thành tựu, phát minh đã đạt được trong các lãnh vực khoa học không gian vũ trụ, khoa học kĩ thuật, công nghệ thông tin, y khoa,… Nhưng chúng ta cũng không khỏi kinh hoàng khiếp sợ trước những cuộc chiến tranh, những vụ khủng bố, những vụ thử hạt nhân, những thiên tai, dịch bệnh, những vụ thánh toán, những vụ tự sát, ly dị và phá hoại… Thêm vào đó, sự toàn cầu hóa không phải là một hiện tượng trung tính vô hại. Trái lại, nó đang gây nhiều căng thẳng, thiệt thòi và nguy hại cho những người nghèo và những người bị thua thiệt . Và nó cũng là một trong những nguyên nhân làm cho hố phân cách giữa người giàu và người nghèo càng thêm sâu rộng. Thế giới hôm nay đang gánh chịu những cuộc khủng hoảng về ý nghĩa : “bạo lực, sự băng hoại và tình trạng nghiện ngập là những triệu chứng của một canh bệnh sâu xa hơn, đó là đói khát ý nghĩa cuộc sống con người” . Và như Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khẳng định : “chúng ta đang sống trong một nền văn minh của sự chết.”

Trước thực trạng trên, thiết nghĩ cách duy nhất để có thể tìm ra câu trả lời thích hợp cho chất vấn về niềm hy vọng của chính mình và cho người khác là phải hướng về Ánh Sáng Phục Sinh của Đức Kitô, là niềm hy vọng bất diệt cho con người. Thế nhưng, để đến được với Ánh Sáng Phục Sinh đòi chúng ta phải can đảm bước vào vườn Ghếtsêmani, để như Đức Kitô chúng ta đối diện với nỗi cô đơn, chấp nhận con đường đau khổ và cái chết.

Đối diện với nỗi cô đơn

Đã là con người, trong cuộc đời, không ai lại không có những khoảnh khắc cô đơn. Đức Kitô cũng đã cô đơn vì không ai chia sớt và không ai có thể chia sớt khi phải đối diện với con đường khổ giá và cái chết. Theo Mc.Cullegouh : “Tâm hồn là “kẻ” săn đuổi cô đơn”. Người ta cô đơn vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Có thể chúng ta cô đơn do xã hội bỏ rơi, do đánh mất những mối tương quan với gia đình, bạn bè…. Và phải chăng những lúc đó ta cảm thấy chán chường mọi thứ. Mọi thứ trở thành vô nghĩa và chẳng có giá trị gì đối với ta. Cuộc sống này, thế giới này quá tẻ nhạt và vô vị. Cuộc đời ta như bị bao bọc bởi những đám mây u ám. Nó như những nghĩa trang hiu quạnh mênh mông đang muốn chôn vùi ta xuống huyệt. Trước nỗi cô đơn đó, biết bao người đã không thể vượt ra được và để cho nỗi cô đơn gặm nhấm làm hao mòn thân xác, rồi đưa đến bờ tuyệt vọng. Phải chăng đó chính là hiện trạng không chỉ của giới trẻ mà là của mọi con người ?

Có thể nói, cô đơn là một thực tại mà bản thân chúng ta dù muốn hay không nó vẫn hiện hữu; cho dù chúng ta tìm cách tránh né bằng sự lấp đầy : đồ ăn, thức uống, hút chích, điện thoại, Internet, truyền hình, xe cộ, tình dục, công việc hay quyền lực, nhưng cô đơn vẫn theo đuổi. Tuy nhiên, có một điều mà tất cả những ai khi đối diện và vượt qua được nỗi cô đơn đều sẽ phải chân nhận rằng c ô đơn chính là ân huệ và nó tạo ra muôn ngàn cơ may cho chúng ta.

Tại sao cô đơn lại là ân huệ và cơ may cho con người ?

Cô đơn là ân huệ và cơ may vì nó phản ảnh sự tự do mà Thiên Chúa ban, để con người không ngừng tìm kiếm, khám phá và qui hướng về Thiên Chúa. Trong cô đơn, chúng ta cần được chia sẻ, cần được cảm thông, cần được lấp đầy sự trống rỗng bằng niềm hy vọng. Nhưng không phải lúc nào và không phải ai cũng có thể cảm thông, chia sẻ, lấp đầy lòng ta, thậm chí đôi khi họ còn gây thêm buồn bực cho ta. Đức Giêsu đã phải thốt lên : “Lạy Cha sao Cha đành bỏ con” (Mt 27,46). Và vì vậy, có những lúc chính chúng ta phải can đảm đối diện và chọn lựa. Khi đó cơ may lớn nhất mà cô đơn mang lại là chúng ta nhận ra được thân phận mong manh của mình và tìm ra được Ánh Sáng Phục Sinh, Ánh Sáng Hy Vọng bất diệt nơi Đức Kitô.

Chấp nhận đau khổ

Giống như sự cô đơn, đau khổ là một thực tại dù muốn hay không lúc này lúc khác nó vẫn cứ hiện hữu trong ta. Đau khổ là gì ? Có thể nói đau khổ là sự bất hạnh, nó phá vỡ sự an vui tự tại vốn có trong nội tâm, mà hạnh phúc mang lại. Có nhiều nguyên nhân gây đau khổ : thuộc thể lý, tinh thần, tình cảm …

Theo nhãn quan Kitô Giáo, đau khổ phát sinh ngay khi nguyên tổ phạm tội bất tuân : “Chúa phán : “Vì ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta đã truyền cho ngươi rằng : “Ngươi đừng ăn nó”, nên đất đai bị nguyền rủa vì ngươi; ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3, 17-19). Lúc này đây, con người đã đánh mất đi mối tương quan mật thiết với Thiên Chúa, mối giao hảo giữa Đấng Siêu Việt và tạo vật bị đứt lìa. Và con người không còn được Thiên Chúa bao bọc như xưa, đồng còn bị đe dọa đến cả mạng sống : “Hình phạt dành cho con quá nặng không thể mang nổi. Đây, hôm nay Ngài xua đuổi con khỏi mặt đất. Con sẽ phải trốn tránh để khỏi giáp mặt Ngài, sẽ phải lang thang phiêu bạt trên mặt đất, và bất cứ ai gặp con sẽ giết con” (St 4,13-14). Tuy nhiên, do lượng hải hà của Thiên Chúa, Người không muốn con người phải hư mất đời đời. Người đã hứa ban Con Một của Người là niềm hy vọng, là Đấng Cứu Tinh giúp cho nhân loại thoát khỏi khổ đau tội lụy.

Đức Giêsu đến thế gian không dùng quyền năng Thiên Chúa để tiêu diệt đau khổ, tội lụy; nhưng bằng chính thân phận mong manh yếu đuối như mọi người trừ tội lỗi, Người đã vượt thắng khổ đau, tội lụy. Người đã đi bước trước, hầu qua cuộc khổ giá của Người nhân loại có được niềm hy vọng và lòng can đảm chấp nhận đau khổ.

Và vì vậy, khổ đau không còn là thứ vượt quá sức chịu đựng của con người, nhưng nó là lời mời gọi sống yêu thương, là cơ may giúp ta rèn luyện sự kiên vững trong niềm tin và hy vọng.

Đau khổ là lời mời gọi sống yêu thương . Tình yêu của Đức Kitô dành cho nhân loại được biểu lộ qua đau khổ, cái chết và sự Phục Sinh của Người. Chúng ta được mời gọi sống như Người, nghĩa là vượt thắng đau khổ bằng con đường bất bạo động, bằng khí giới của yêu thương. Như vậy, trước một thế giới của đau khổ, đói nghèo, thù hận, chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh và mất niềm hy vọng, mời gọi chúng ta hãy đối diện, hãy nhập cuộc. Ngõ hầu, mọi người nhận ra được sự quan phòng, yêu thương, trân trọng của Thiên Chúa, để không chối bỏ sự hiện hữu của chính mình và đồng loại.

Đau khổ giúp rèn luyện sự kiên vững trong niềm tin và hy vọng. Đau khổ là thao trường rèn luyện ý chí, rèn luyện niềm tin và hy vọng, để một khi vượt thắng được, chúng ta sẽ thấy trưởng thành, vững mạnh hơn trong cuộc sống. Hơn nữa, dám đối đầu, chấp nhận mọi đau khổ làm ta trở nên Kitô hơn và là dấu chỉ niềm hy vọng cho thời đại tin và hy vọng vào Đấng đã chiến thắng thế gian.

Chấp nhập cả cái chết

Trở nên dấu chỉ của niềm hy vọng cho thời đại đòi chúng ta can đảm chấp nhận con đường khổ giá của Đức Kitô, như Người đã nói : “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống vì Thầy thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (Mt 16, 24-25). Đức Kitô Giêsu đã hy hiến mạng sống nơi cây thập giá và Người đã Phục Sinh để đem lại niềm hy vọng cho nhân loại. Chúng ta dám hy sinh tính mạng vì niềm hy vọng của mình và người khác ?

Nhìn lại lịch sử Giáo Hội hoàn vũ và Giáo Hội Việt Nam, chúng ta không khỏi ngưỡng mộ và kính phục các ngài. Một Maria Goreti bé bỏng, duyên dáng xinh đẹp mới chỉ 12 tuổi, nhưng đã dám hy sinh tính mạng bảo vệ sự trinh tiết của mình, đồng thời trước khi tắt thở còn tha thứ cho người tìm cách cưỡng đoạt và giết mình. Một Maximilianô Kolbe không tiếc mạng sống mình khi chết thay cho người bạn tù. Hay 118 vị thánh Anh hùng tử đạo Việt Nam đã đổ máu mình ra để bảo vệ niềm tin của mình. Và còn rất nhiều rất nhiều những người đã âm thầm hy sinh cách này cách khác. Tất cả những điều đó chẳng phải cho ta thấy niềm tin, niềm hy vọng cho mình cho người và cho thế giới hay sao ?


Thay cho lời kết, xin mượn hình ảnh của hai vị ngôn sứ thời đại hôm nay. Trước hết, đó là hình ảnh già nua, nhăn nheo, lụ khụ của một cụ già, đó là mẹ Têrêsa Calcutta. Bằng đời sống yêu thương, tin tưởng phó thác nơi Thiên Chúa, mẹ đã đón nhận, phục vụ những thân phận bị bỏ rơi, nghèo đói, những con người bị gạt ra bên lề xã hội, để giúp họ được chết như những con người vốn mang phẩm giá cao quí. Thứ đến, không ai khác hơn đó là hình ảnh Đức Gioan Phaolô II, ngài đã nỗ lực không ngừng để mang lại hòa bình cho thế giới, đồng thời lên tiếng cảnh báo, lên án và bảo vệ cho nhân quyền, phẩm giá của con người.

Có thể nói hai vị ngôn sứ này là biểu hiện của niềm hy vọng mà Thiên Chúa ban tặng cho thế giới hôm nay. Và Thiên Chúa hơn lúc nào hết cũng luôn mời gọi mỗi người chúng ta trở nên những dấu chỉ của Tin Mừng, của niềm hy vọng, cho dù là rất nhỏ nhoi trong thế giới hôm nay.

Nguyễn Tài, OP

 

Xuân Tình Thương


1. Trong tâm tình tri ân và cảm tạ

Chỉ còn một thời gian rất ngắn nữa là kết thúc năm Bính Tuất và chào đón Xuân Đinh Hợi. Cảm tạ Chúa, chúng ta đã được hưởng một năm với nhiều biến cố trọng đại của đất nước cũng như của Giáo Hội. năm nay đất nước chúng ta đã có một bước nhảy vọt : tham gia vào tổ chức thương mại thế giới (WTO), đăng cai tổ chức Hội Nghị Thương Mại Châu Á Thái Bình Dương (APEC), với sự tham gia của 23 vị nguyên thủ quốc gia. Qua sự kiện này, chúng ta đã đạt được rất nhiều thắng lợi ngoại giao kinh tế (nhiều nhà doanh nghiệp ngoại quốc đã đầu tư vào Việt Nam). Tuy nhiên, năm nay cũng là năm đất nước chúng ta phải chịu thiên tai, bão táp (mười cơn bão), lụt lội, lở đất, gió xoáy… gây tổn thất nặng nề về người cũng như về của và cùng với toàn dân chúng ta đã tham gia việc cứu trợ, sự đóng góp của các Dòng rất lớn.

Hội đồng Giám Mục Việt Nam đã chọn chủ đề sinh hoạt mục vụ cho năm vừa qua : Giáo Hội Sống Lời Chúa, đi đâu và chỗ nào cũng thấy phong trào học hỏi Lời Chúa, chia sẻ, cầu nguyện dưới ánh sáng Lời Chúa (Lectio Divina). Đặc biệt trong lời giảng dạy cũng như tổ chức việc suy tôn Lời Chúa được các Linh mục và Tu sĩ hướng dẫn cho giáo dân thật sốt sắng.

Với giáo phận Xuân Lộc, mọi nỗ lực dành cho việc xúc tiến xây dựng Đại Chủng Viện và Tòa Giám Mục đã được hưởng ứng nhiệt tình, không những nơi giáo dân, những nhà hảo tâm mà cả nơi Linh mục, Tu sĩ nam nữ. Trong tuần tĩnh tâm giáo phận vừa qua, Đức Cha đã rất xúc động với sự hưởng ứng quảng đại của mọi thành phần dân Chúa cho quỹ gia đình Anrê.

Bên cạnh đó, giáo phận mất đi một vị chủ chăn kính yêu : Đức Cha Cố Phaolô Maria Nguyễn Minh Nhật, một vị Giám Mục thánh thiện, khôn ngoan và can đảm. Lễ đại tang Đức Cha Cố đã được tổ chức rất trọng thể, điều đó nói lên sự hiệp nhất của mọi thành phần dân Chúa. Buổi lễ quy tụ 15 vị gồm Tổng Giám Mục và các Giám Mục giáo phận, khoảng 600 Linh mục đồng tế, rất đông các Tu sĩ nam nữ và tín hữu tham dự. Riêng với Tỉnh Dòng Đaminh Việt Nam cũng có rất nhiều biến cố đáng ghi nhớ :

Một năm có nhiều kỷ niệm :

- Hai mươi năm năm hiện diện của Phụ Tỉnh Calgary (6 – 8/7).
- Hai mươi lăm năm giáo xứ Hòa Bình được thành lập (8/12).
- Hai mươi lăm năm hiện diện của Tu xá Tam Hà.
- Năm mươi năm hiện diện của hai tu viện : Mai Khôi và Mân Côi.
- Và cùng chung với niềm vui với kỷ niệm mười năm thành lập Liên hiệp các Dòng nữ Đaminh Việt Nam : Mười năm phục vụ Lời với nhiều cố gắng.
 -Xây dựng nhà mới :
- Tập Viện Đaminh Louis Bertrando.
- Tu Viện Mai Khôi.

Một năm có nhiều thay đổi nhân sự : Hai Tân tu viện trưởng và bảy cha xứ mới. Một năm với nhiều nỗ lực để mở rộng tới các biên cương : Bà Rịa, Đà Nẵng, Hải Phòng, Bùi Chu…

Hôm nay trong tâm tình cuối năm, chúng ta cùng cảm tạ và tri ân Chúa về những hồng ân mà Chúa đã ban, cũng như giúp chúng ta vượt qua những thử thách, gian truân.

2. Hãy nhìn đời mình dưới ánh sáng đức tin

Trong những ngày tận tháng cùng này, đây là cơ hội để chúng ta suy niệm về thời gian hồng phúc Chúa đã dành cho chúng ta. Thời gian đó làm nên lịch sử riêng của đời ta. Lịch sử riêng được hình thành với nhiều khác biệt. Giàu hay nghèo. Có địa vị cao hay địa vị thấp. Những điều đó không quan trọng, cho bằng chúng ta có những thiện tâm để phân biệt sự thiện, chọn lựa sự thiện, sống theo sự thiện. Có một thực tế : “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm nhưng sự ác tôi không muốn thì tôi lại làm” (Rm 7,19). Quan trọng là phán xét của Chúa. Mà phán xét của Chúa bao giờ cũng chính xác và cũng rất bất ngờ.

Có những người giàu sang như ông phú hộ của người hành khất Lagiarô, do vô tâm, đã bị Chúa ném vào hoả ngục. Đang khi những người nghèo khổ như ông ăn mày Lagiarô, nhờ lương thiện, lại được Chúa đưa lên thiên đàng.

Có những người mang tiếng là tội lỗi như người thu thuế, nhờ sám hối khiêm nhường, đã được Chúa chấp nhận vào số những người Chúa xót thương. Đang khi những người được tiếng là đạo đức như người Pharisêu, do kiêu căng, lại bị Chúa khước từ.

Có những người gọi là xa đạo, nhưng nhờ thiện chí, lại được đón vào Nước Trời. Đang khi những con cái trong nhà, do dửng dưng, lại bị đuổi ra khỏi Nước Trời (Lc 13,27).

Có những người đứng chót, nhưng đầy phấn đấu, lại được mời lên chỗ nhất. Đang khi những người chỗ nhất, nhưng nhởn nhơ hưởng thụ, lại bị đưa xuống chỗ rốt cùng (Mt 20,16).

Những việc Chúa làm trên đây là những điều kỳ diệu nói lên quyền năng thương xót của Người. Chúng ta ca tụng Thiên Chúa vẫn đang làm những điều kỳ diệu như thế trong lịch sử nhân loại hôm nay. Trong tâm tình cảm tạ Chúa, ta đặt lịch sử đời ta dưới chân Người. Nó cần phải có, nhưng nó chẳng đáng là gì. Xin Chúa đừng nhìn vào đó để đánh giá chúng ta. Chúng ta chỉ còn biết trông cậy vào lòng thương xót của Ngài thôi. Một chút riêng tư, xin mượn lời Thánh Vịnh để nói :


“Từ độ thanh xuân, lạy Thiên Chúa,
Con đã được Ngài thương dạy dỗ,
Tới giờ này, con vẫn truyền rao những điều kỳ diệu của Ngài.
Cả lúc con đã già, da mồi tóc bạc,
Lạy Thiên Chúa, xin đừng bỏ rơi con” (Tv. 17,17-18).

3. Những sắc màu hoa xuân

Nói đến mùa xuân, nói đến Tết, người ta nghĩ đến hoa. Hoa tượng trưng cho mùa xuân. Hoa xuân muôn màu muôn vẻ, đa sắc, đa dạng… hoa đã đi vào lòng người và làm cho khung cảnh thêm tưng bừng, rộn ràng sắc xuân. Mỗi tâm hồn cũng cần có những sắc hoa tô điểm cho cuộc đời trở nên đáng yêu hơn. Xin giới thiệu mấy loại hoa tiêu biểu :

Hoa Lời Chúa. Đọc, suy niệm và sống Lời Chúa, cần phải mang Lời Chúa trong lòng, để Lời Chúa hướng dẫn, hoán cải tâm hồn. Nhất là dùng Lời Chúa chạm vào cuộc sống và những kinh nghiệm cuộc đời. Từ đụng chạm đó sẽ loé ra những tia sáng mới để có những sáng tạo cho cách sống đạo, cách dạy đạo, cách giảng đạo được thích hợp hơn, hữu hiệu hơn. Nhất là phải dùng Lời Chúa làm chuẩn mực để phân định và đánh giá. Thánh Phaolô dạy: “Anh em đừng có rập theo thói đời này. Nhưng hãy biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm hồn, hầu có thể nhận ra đâu là ý Chúa, cái gì là tốt, cái gì là đẹp lòng Chúa, cái gì là hoàn hảo” (Rm 12,2). Để có thể nhận ra ý Chúa thì tất nhiên phải dựa trên tiêu chuẩn Lời Chúa.

Hoa nội tâm. Phải lặn sâu vào nơi thầm lặng nhất của tâm hồn. Ở đó để suy niệm, để lắng nghe tiếng Chúa, để cân nhắc, để chọn lựa. Chỗ đó phải là nơi có tự do thiêng liêng nhất. Không bị áp lực của dư luận, của các thành kiến, của các đam mê xấu. Chính ở chỗ thẳm sâu đó, tâm hồn sẽ được Thánh Linh dạy dỗ. Như Chúa Giêsu đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần, mà Chúa Cha sai đến nhân danh Ta, sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều mà Ta đã nói với anh em” (Ga 14,26). “Khi nào Thánh Thần đến, Người sẽ dẫn anh em đến sự thực toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, thì Người sẽ nói lại và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến” (Ga 16,13).

Hoa dấn thân, hoa của sự thương cảm và chăm sóc đặc biệt dành cho loại người thường bị xã hội bỏ rơi. Chúa Giêsu đã nhắc đến họ trong dụ ngôn “Mời dự tiệc trong Nước Trời”. “Hãy mau ra các nơi công cộng và đường phố trong thành, đưa các người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt vào đây” (Lc 14,21). Hoa trái thiêng liêng cao quý nhất, đẹp lòng Chúa là bác ái, yêu thương (Gl 5, 22). Bác ái yêu thương là tóm tắt mọi lề luật (Gl 5,14).

Trong thời gian vừa qua, trong số các thiệp chúc mừng năm mới có một thiệp xuân của một người bạn bị bệnh ung thư giai đoạn cuối, làm tôi xúc động. Nội dung bức thiệp như sau :

“Nhân dịp xuân về, xin cầu chúc Cha nhiều điều tốt đẹp. Cha ơi, hôm nay con đã tìm sự bình an trong tâm hồn, một ngày thật là hạnh phúc đối với con trong tình yêu Chúa. Cám ơn Chúa. Cám ơn Cha đã cầu nguyện cho con. Lúc này con chỉ còn biết thưa với Chúa : Chúa ơi, con không còn phiền muộn và đau khổ trong căn bệnh ung thư của con nữa. Lạy Chúa con vui vẻ yêu Chúa.

Kính chúc Cha vạn an trong năm mới. Kính mến !”

Tôi nghẹn ngào đến rơi lệ, một tấm thiệp chúc mừng năm mới gây ấn tượng ! Một cánh én tả tơi trong bầu trời đầu Xuân nhưng vẫn cố gắng tung bay để mang niềm vui đến cho đời. Có lẽ năm sau, tôi sẽ không còn có cơ hội để nhận thiệp chúc tết của anh nữa. Năm sau biết anh còn có cơ hội để tuyên xưng đức tin, tình yêu và niềm hạnh phúc của mình trong ngày đầu năm như thế này hay không ? Anh sẽ ở đâu vào mùa Xuân năm sau ?

Trong những ngày giáp Tết này, tôi có nhiều dịp tiếp xúc với những mảnh đời bất hạnh bên vỉa hè, có thể nói là đụng chạm tới những vết đau của kiếp người lầm than, tai nghe những tâm tình của những em bé bụi đời ăn xin, bán vé số, bé gái bán hoa, bán báo rong trên đường phố… Mỗi mảnh đời là một câu chuyện thương tâm khác nhau : nhà nghèo, cha mẹ phải bán con cho người khác, mồ côi nên phải đi ăn xin… Tóm lại, xã hội còn nhiều những vết thương lở loét làm nhức nhối, lòng quạnh đau của những tâm hồn dâng hiến.

Ts. Dom. ĐinhViết Tiên. OP

 

Ngày xưa... Tết Nguyên đán

Thời Lý-Trần

Tối 30, vua yết kiến Thái Hậu, Thái Thượng Hoàng ở cung Đồng Nhân. Các tăng đồ, đạo sĩ vào cung làm lễ tống trừ ma quỷ. Đêm trừ tịch này, dân Đại Việt đốt pháo ở trước cửa nhà để xua đuổi tà ma và đón mừng năm mới.

Phong tục Lý - Trần cho phép con trai, con gái nhà nghèo không đủ tiền sắm sanh, mối lái, cưới xin theo lễ giáo phong kiến, thì lúc này cứ tự ý lấy nhau. Một phong tục nhân đạo hiếm có.

Sáng mồng một Tết, vua Trần ngự ở điện Vĩnh Thọ. Thái tử và các quan hầu cận chúc mừng nhà Vua, sau đó nhà Vua vào cung Trường Xuân làm lễ cúng tổ tiên.

Vua ngự ở điện Thiên Ân. Các phi tần xếp hàng ngồi quanh. Nội quan đứng ở trước điện, Thái tử và các quan đứng theo bậc, lạy mừng Vua, tiến ba lần rượu. Thái tử lên lầu dự yến. Triều quan ngồi ở điện nhỏ phía Tây, ngoại quan ngồi ở Tây Vu, yến ẩm đến quá trưa, xế chiều mới ra về.

Ở trước điện, thợ thuyền dựng ngay đài Chúng Tiên hai tầng, tam cấp, ngói bạc chiếu sáng khung trời, tòa sen phô bày tướng quý. Trên nóc Bảo Đài thì chim thiêng đứng đậu (chim là hình ảnh mặt trời - dương). Bốn góc có rồng cuốn bay (cá rồng là biểu tượng của nước - âm). Tám lọng đính thất trân, đai lưng chạm bát bảo. Trên thềm cao nhất, đấng Thanh Minh ngồi ngự. Cấp dưới, bậc dưới, tiên nữ chầu quan. Nhạc quan dàn hàng ngoài sân. Mọi người vui mừng nhảy nhót. Phấn chấn thiên tài mà dựng lên khúc nhạc đẹp, an ủi các chư hầu từ xa vào chầu ở kinh đô. Khúc điệu vượt lên không mà át cả mây bay, hòa tiêu sáo mà tiếng vang càng sáng mượt...

Vua lên quan Đài ăn yến, trước sau 9 lần vái, 9 lần uống rượu, rồi mới tan tiệc.

Mọi nhà dân đều dọn mâm cúng tổ tiên. Thăng Long - Đại Việt sủng phật, trai gái ngày Tết mang hương lên chùa lễ Phật.

Ngày mồng hai Tết, các quan được ở nhà cúng lễ tổ tiên.



Ngày mồng 3 Tết, Vua ngự trên lầu, cửa Đại Hùng (cửa Nam) xem hoàng tử cùng các quan nội thị ném quả tú cầu (quả còn) làm bằng gốm, to bằng nắm tay trẻ con, có buộc 20 dải ngũ sắc. Ai đón mà không rơi là điều may mắn trong năm. Toàn kinh thành trai gái chơi đánh đu, đá cầu, ca múa giao duyên, tung còn, kéo co. Ai thắng được uống rượu, ai thua uống nước lã.

Mồng bốn Tết, vua Lý mở tiệc ban yến cho các quan. Sáng mồng năm Tết, vua mở tiệc, khai hạ, sau đó các quan dân đi lễ các chùa, đền, đi dạo chơi các công viên nổi tiếng. Ngày mồng bảy thấy trời sáng sủa, không mưa gió thì người ta tin rằng con người cả năm được khỏe mạnh, do đó việc mở tiệc ăn mừng gọi là khai hạ. Lâu ngày, cứ đến mồng bảy trời có mưa, cũng mở tiệc khai hạ.

Rằm tháng giêng: “Lễ Phật quanh năm không bằng ngày rằm tháng giêng”. Đó là ngày thượng nguyên, ngày trăng tròn đầu tiên của một năm mới. Theo “An Nam chí lược”, đêm Nguyên tiêu, triều đình nhà Trần “dựng cây đèn trên sân rộng, gọi là đèn Quảng Chiếu, muôn ngọn sáng rực rỡ trên trời dưới đất. Các vị sư đi xung quanh đèn đọc kinh, các quan đứng vòng quanh đèn làm lễ Triều Đăng”.

“Đại Việt sử lược” chép: “Hội đèn Quảng Chiếu đầu tiên vào năm Hội Tường Đại Khánh nguyên niên (1110) đời Lý Nhân Tông. Đèn Quảng Chiếu là một loại đèn kéo quân. Trong đêm hội đèn còn kết hợp đốt pháo bông, múa rối”. Tết Nguyên đán thời Lý - Trần cũng như hiện nay, bên cạnh nội dung nghi lễ truyền thống, còn là những sinh hoạt văn hóa, văn nghệ phong phú đầy sức sống của một dân tộc.

Thời nhà Nguyễn

Ngày 20 tháng chạp âm lịch, lễ Phật thức là lễ rửa ấn được tổ chức. Các quan trong triều mặc áo thụng xanh ra chầu tại điện Cần Chánh nhà Vua ngự ra.

Ấn được rửa bằng nước hương thủy lấy ở ngã ba sông và đựng trong một cái bình đầy hoa thơm. Ấn rửa xong được các quan cất vào tủ khóa lại, bên ngoài có niêm hai chữ hoàng phong. Sau đó, Vua và các quan đều nghỉ việc, không đóng ấn nữa.

Ngày 22 tháng chạp, Vua ngự đền Thái Miếu làm hạp hướng, mời các vị tiên đế về ăn Tết Nguyên đán. Trên mỗi bàn thờ, có bày một cây lụa trắng gọi là chế bạch.

Ngày 30 tháng chạp, Vua ngự ra điện Thái Hòa làm lễ Thượng tiên (lễ dựng nêu). Suốt đêm 30, các bà phi chầu chực hoàng thượng ở điện Quang Minh, các cung nữ múa hát ở cung Duyệt Thi.

Ngày mồng một tháng giêng, lễ Nguyên đán được cử hành trọng thể. Vua ra ngự điện Thái Hòa. Các quan làm lễ triều bái năm lạy và dâng hạ biểu.

Ngày mồng bảy tháng giêng, lễ khai hạ, tức là lễ hạ nêu được cử hành. Ngày mồng tám tháng giêng, một vị quan do Vua cử lên đàn Nam Giao làm lễ Kỳ cáo, cáo trước với trời đất ngày và tháng đã tìm được về lễ tế trời.


 

Theo LÊ QUANG THẮNG (Khoa Sử - ĐH Quốc gia Hà Nội)

Hà Nội Mới

HÁI LỘC ĐẦU XUÂN


(Lm. Anphong Trần Đức Phương)

Chúa ơi, nay ngày Xuân,

Hồn con say sưa trong sắc hương,

Nhịp lừng vang cùng với thiều quang…

Cùng chung tiếng hát với Ca đoàn vào cuối Thánh Lễ, đoàn người theo thứ tự hàng hai tiến về phiá Cung Thánh để “Hái Lộc Đầu Xuân”. Mỗi người tự bốc lấy một mãnh giấy màu hồng có in một lời Kinh Thánh trong Sách Tin Mừng, rồi tiến sang bên cạnh để lãnh một trái cam tươi. Đó là “Lộc Đầu Xuân” Chúa ban cho mỗi người. Trái cam tươi tượng trưng “hoa mầu ruộng đất” Chúa ban cùng với “lao công của con người”, mang về thưởng thức vào ngày Đầu Xuân để tạ ơn Chúa cho những ơn lành hồn xác Chúa đã thương ban trong năm cũ và cầu xin Chúa chúc lành cho Năm Mới. Lời Chúa mang về để đọc và suy niệm trong khung cảnh của ăn thiêng liêng nuôi sống suốt năm mới đang khởi đầu.

Cũng như tại nhiều Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ, nơi chúng tôi từ lâu cũng có nghi thức “Hái Lộc Đầu Xuân” tại Nhà Thờ sau Thánh Lễ Giao Thừa vào nữa đêm, cũng như các Thánh Lễ ngày Đầu Xuân. Sau mỗi Thánh Lễ, vị Chủ Tế cùng với Cộng đoàn đọc những lời Tạ Ơn Chúa cho một Năm Cũ đã qua, “Chúc Tuổi mới” cho nhau và cầu xin những ơn lành cho Năm Mới đang tới. Sau đó, mọi người tiến lên “Hái Lộc Đầu Xuân” vừa đi lên, vừa vui vẻ, hợp cùng Ca Đoàn hát Thánh Ca mừng Xuân Mới:

“Chúa ơi, nay ngày Xuân…

Năm Mới theo Âm Lịch, Năm Mới theo vận hành của mặt trăng (Lunar New Year) khởi đầu với Mùa Xuân, rất thích hợp với khung cảnh của quê hương Việt Nam, nhất là ở Miền Bắc. Mùa Đông “chết chóc” đã qua, Mùa Xuân trở về mang lại một sức sống mới cho vạn vật. Con người được thêm một “Tuổi Mới” : Tuổi Tí, tuổi Sửu, hay tuổi Dần …v.v… và vạn vật hân hoan vì đã qua đi một Mùa Đông lạnh giá để sang Mùa Xuân ấm áp. Cây cối đâm chồi, nẩy lộc … Hoa mai, hoa đào … nở rộ thắm tươi. Ruộng vườn chuẩn bị sẳn sàng để đón nhận những “hạt giống mới” gieo xuống và nẩy nở đầy hứa hẹn cho cả một mùa màng tốt tươi để nuôi sống con người và muôn vật…

Theo Lịch Phụng Vụ Thường Niên của Giáo Hội Việt Nam, Thánh Lễ Đêm Giao Thừa là “THÁNH LỄ TẠ ƠN” cho Năm Cũ đã qua với muôn Ơn Thánh Chúa đã thưởng ban.

Thánh Lễ ngày đầu Năm Mới (Tết Nguyên Đán) là Thánh Lễ “Cầu Bình An” (Giống như ngày Đầu năm Dương Lịch là ngày “Cầu Nguyện Cho Hòa Bình Thế Giới” theo Phụng Vụ chung của toàn thể Giáo Hội Công Giáo). Theo Lịch Phụng Vụ Quý Mùi, 2003: “Ngày Mùng Một Tết Nguyên Đán là Ngày Cầu Nguyện cho ‘Quốc Thái Dân An’, ngày Gia Đình họp mặt để tạ ơn Chúa và mừng tuổi cho nhau”.

Thánh Lễ ngày Mùng Hai Tết để kính nhớ, ghi ơn, và cầu nguyện cho Tổ Tiên, Ông Bà Cha Mẹ đã qua đời… “Ngày Mùng Hai Tết Nguyên Đán là ngày ghi nhớ công ơn Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ, dòng họ. Ngày tìm về căn tính, nguồn cội Việt Nam của mình!” (Theo Lịch Phụng Vụ Công Giáo Quý Mùi, 2003).

Thánh Lễ ngày Mùng Ba Tết để cầu nguyện cho Mùa Màng được tươi tốt; ngày xưa thường được gọi là “Ngày Cầu Mùa”; nói chung là để xin “ơn thánh hóa công ăn việc làm”. “Ngày cầu nguyện cho con người biết ý thức việc đóng góp công sức của mình với Thiên Chúa để làm thăng hoa đời sống và làm đẹp thế giới. Ngày cầu xin cho Quê Hương, Đất Nước luôn đuợc mưa thuận gió hòa!” (Theo Lịch Phụng Vụ Công Giáo Quý Mùi, 2003).

Vậy, ngày Tết, ngày đầu Năm Mới là những ngày Xuân “đất trời hòa hợp”, người người hớn hở tay bắt mặt mừng để chúc tuổi mới cho nhau, ngày gia đình xum hợp để con cháu dâng quà tết và chúc tuổi thọ cho ông bà, cha mẹ, các bậc trưởng thượng trong dòng họ; rồi Ông Bà, Cha Mẹ “lì xì” cho con cháu lấy hên ngày đầu năm và cho cả năm. Ngày Tết cũng là ngày để mỗi người có niềm tin tôn giáo biết ơn đến “Đấng Tạo thành trời đất biển khơi và muôn vật trong đó” để nuôi sống con người; vì thế các bậc Vua Chúa thưở xưa đã dành những giờ phút thiêng liêng nhất của ngày đầu Năm Mới để đến Đàn Nam Giao tế TRỜI ĐẤT để tạ ơn và xin cho “mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt”.

Ngày Tết cũng là những ngày để mọi người nghỉ ngơi phần xác và tu dưỡng tinh thần, là những ngày con người nhìn lại chính mình và nhìn lại những ngày đã qua để “tu sửa” cuộc đời mà chuẩn bị cho cuộc hành trình trong cuộc sống mới đang trải dài trước mặt… Năm Mới, Tuổi Mới và Một Cuộc Đời Mới mà ai cũng mong sao được tốt đẹp hơn, hòa hợp yêu thương hơn với mọi người trong gia đình, khu xóm, sở làm và ở khắp nơi. Vậy chúng ta hãy cùng nhau chung tay xây dựng một gia đình mới, một xã hội mới trong bình an và hòa hợp yêu thương trong Năm Mới này.

Xin chào mừng Tết Nguyên Đán mở đầu Năm Mới đang tới….

Xin chào mừng Mùa Xuân dân tộc và cầu nguyện cho Quê Hương:

Xin Chúa khoan nhân, ban xuống muôn ân,

Cho chúng con một năm thắm tươi

Xin Chúa khoan nhân, ban xuống muôn ân,

Cho chúng con một năm sáng ngời…

(Bài này viết để tưởng nhớ Cha Hoài Đức, một Nhạc sĩ danh tiếng trong Nhạc Đoàn Lê Bảo Tịnh, đã sáng tác bản Thánh Ca “Ngày Xuân Cầu Nguyện” mà chúng tôi trích dẫn trên đây. Cha Hoài Đức năm nay đã hơn 80 tuổi, hiện đang nằm hôn mê trong Nhà Hưu Dưỡng các Cha gần Nhà Thờ Ngã Sáu, Chợ Lớn. Xin dâng lên Chúa lời cầu nguyện đặc biệt cho Cha được đủ sức chịu đựng nổi đau đớn trong cơn bịnh hoạn và ra đi bình an để trở về Nhà Cha và hưởng một Mùa Xuân vĩnh cửu trên Nước Hằng Sống).

NĂM HỢI GỢI CHUYỆN HEO THEO KINH THÁNH

 

Bây giờ là thế kỷ thứ 21, thời đại vi tính liên mạng. Cả thế giới gần gũi nhau như hàng xóm. Năm châu bốn biển như chung một nhà. Bất kỳ nơi đâu xảy ra một biến cố gì quan trọng là ngay tức khắc khắp nơi đều biết. Thế mà còn ngồi bấm đốt tay tính tuổi theo kiểu tí-sửu-dần-mão, thì quả là còn hoài cổ, còn lưu luyến những năm tháng canh-tân-nhâm-quý lắm vậy.

Nhưng dù sao, để mừng Tết cổ truyền Việt Nam, cho ngày đầu năm Con Lợn theo truyền thống Á Đông có thêm được hương vị Nhà Đạo, chúng tôi cũng xin được gợi lại chuyện về con heo, con vật cầm tinh, biểu tượng cho năm Hợi này, dưới cái nhìn theo Kinh Thánh.

Heo, theo giáo lý

Chúng tôi vẫn nhớ như in, ngày còn nhỏ, cứ mỗi chiều chủ nhật, gia tiên nghiêm thường với tay lên chồng sách trên bàn thờ, lấy quyển sách chữ nôm ra ngồi trên ngưỡng cửa, mở bài Phúc âm chủ nhật tuần ấy ra, đọc theo cung giọng Evan. Giọng ông lên bổng xuống trầm chẳng khác gì giọng thầy già quản đọc Evan trước lễ. Lời kinh Evan sang sảng vang lên, quyện theo gió chiều, lan vọng cả đến hàng xóm.

Sau đó, ông lại mở cuốn sách giáo lý bìa cứng, cẩn thận lật từng trang, dẫn giảng cho chúng tôi xem hình. Đây là cuốn giáo lý khổ rất to, in ở mãi tận bên Tây bằng chữ Quốc ngữ. Tôi không còn nhớ nhan đề cuốn sách, nhưng chỉ nhớ cứ mỗi trang chữ, lại có một trang hình. Hình vẽ đẹp, tuy chỉ là đen trắng. Tôi nhớ mãi cảnh vẽ Hoả ngục có bảy cửa đi xuống. Mỗi cửa có một con vật biểu tượng, dựa theo bày mối tội đầu. Bảy con vật đến nay tôi còn nhớ được năm con: Công, Dê, Rắn, Rùa và Lợn.

Hình ành con lợn béo múp míp, phì nộn, bước đi ục ịch dẫn đầu một đoàn người cũng phục phà phục phịch, vừa đi vừa tu rượu kìn kìn, vừa ngoạm đùi gà nhồm nhoàm… lặc lè bước theo con heo xuống cửa thứ năm của Hoả ngục.

Sách giáo lý đó khi dẫn giải Kinh Cải Tội Bảy Mối Có Bày Đức, đã vẽ con lợn làm biểu tượng cho sự ham mê ăn uống, để minh họa cho câu: thứ năm kiêng bớt chớ mê ăn uống.

Con heo đã được đưa vào sách giáo lý, theo cái nhìn của người đời, cũng như con heo đã có từ xa xưa trong Kinh Thánh.

Heo trong Ngũ thư

Đối với người công giáo, Ngũ thư là năm cuốn sách đầu tiên của Kinh Thánh. Thế kỷ thứ ba trước Chúa Giáng sinh, các dịch giả Hy Lạp đã chia các sách đầu tiên của Cựu Ước thành năm cuốn, cuộn lại để trong một hộp đựng có năm ngăn, mỗi ngăn một cuốn. Vì thế mới gọi là Ngũ thư.

Cuốn thứ ba trong bộ Ngũ thư là Sách Lêvi, ghi chép các luật lệ dân Israel phải tuân giữ. Sách Lêvi đã nói đến con heo khi viết về luật thanh khiết.

Theo đó, Chúa truyền cho ông Maisen và ông Aaron dạy dân Israel chỉ được ăn thịt các súc vật tinh sạch, còn các con vật kể là nhơ nhớp thì không được ăn thịt chúng, mà cũng không được đụng đến chúng để giữ cho mình được tinh sạch.

Những súc vật được kề là tinh sạch phải gồm đủ hai điều kiện: có móng chân chẻ đôi và nhai lại, như trâu, như bò… Còn vật nào chỉ có một trong hai điều kiện trên thì kể là nhơ nhớp, như con lạc đà, con thỏ… tuy có nhai lại nhưng không có móng chân chẻ đôi (xem Lv 11,1-6). Ngược lại “lợn tuy chân có móng và móng chẻ hai, nhưng không nhai lại: nó sẽ là nhơ đối với các ngươi. Thịt chúng các ngươi sẽ không ăn, thây chúng các ngươi sẽ không đụng đến, chúng sẽ là nhơ đối với các ngươi” (Lv 11,7-8).

Thà chết, không ăn thịt heo

Luật ấy, dân Israel vẫn luôn trung thành tuân giữ, cho dù trong những thời kỳ ngặt nghèo bị các vua dân ngoại chiếm đóng. Vua Antiôkhô đã chiếm đoạt tất cả các đồ thờ tự trong đền thờ Giêrusalem, cướp Đền thờ để làm nơi thờ thần Dớt Ôlimpia. Trong các dịp cúng thần, dân Israel bị ép buộc phải ăn thịt heo.

Một trong những kinh sư quan trọng của Israel là cụ Êlêasa, tuy đã 90 tuổi, nhưng cụ phương phi đẹp lão. Cụ bị bắt phải há hàm để nhét thịt heo vào miệng, nhưng cụ thà chết vinh hơn sống nhục, đã khạc nhổ hết thịt heo ra khỏi miệng, rồi tự nguyện tiến ra nơi hành hình.

Những người chủ tiệc kính thần, vì quen cụ đã lâu nên đã kéo cụ ra riêng một chỗ, khuyên cụ ăn một miếng thịt khác không phải là thịt lợn, rồi giả vờ như đang ăn thịt heo tuân lệnh nhà vua. Làm như vậy cụ sẽ thoát chết. Nhưng cụ trả lời họ: “Ở tuổi chúng ta, giả vờ là điều bất xứng, e rằng làm gương mù cho lớp trẻ, họ sẽ bảo là ông già Êlêasa đã 90 tuổi mà còn theo dân ngoại ăn thịt heo, và họ bị lầm lạc vì tôi đã giả vờ…”

Cụ đã bị hành hình, lúc sắp lìa đời, cụ vừa rên rỉ vừa thì thào nói: “Đức Chúa là Đấng thông biết mọi sự, hẳn Người biết là dù có thể thoát chết, nhưng tôi vẫn cam chịu những cực hình nơi thân xác, mà tâm hồn tôi vui vẻ vì tuân giữ luật Chúa”.

Cụ đã từ giã cuộc đời. Cái chết của cụ thật là tấm gương cao thượng chói sáng, không những cho các thiếu niên, mà còn cho phần lớn dân tộc.(xem 2Mcb 6,18-31).

Lại một tiệc cúng heo

Dưới ách đô hộ của ngoại bang, dân Israel bị cưỡng bức tham dự các dịp cúng thần. Ngoài các lễ chính, mỗi tháng vào ngày sinh của vua, họ lại phải ngậm đắng nuốt cay khi bị bắt buộc tham dự bữa cúng để cầu phúc cho vua.

Trong một tiệc cúng, nổi bật trong số người Israel bị ép tham dự, có một gia đình tám mẹ con. Vua Antiôkhô cho lấy roi gân bò mà đánh mẹ con họ, bắt họ ăn thịt heo là thức ăn luật Maisen cấm. Người con cả đã thay mặt gia đình lên tiếng: “…Chúng tôi thà chết chẳng thà vi phạm luật pháp của cha ông chúng tôi.”

Thế là anh bị chặt tay chân, rồi lý hình đem nướng anh trong cái vạc lớn đã được nung đỏ…

Đến lượt người thứ hai, vua tưởng anh ta đã tởn khi thấy anh cả bị chết thảm như vậy, sẽ vâng lệnh vua mà ăn thịt heo. Ngờ đâu, anh ta lại mạnh mẽ trả lời “không”. Vì thế anh ta cũng bị xử như vậy.

Rồi người thứ ba, người thứ tư, người thứ năm, người thứ sáu, lần lượt cũng đều bị hành hạ đến chết vì tội không chịu ăn thịt lợn.

Còn cậu con út, vua dụ dỗ hứa ban nhiều bổng lộc và quan tước để cậu sống vinh hoa phú quý mà nối dõi tông đường, nếu cậu ăn thịt lợn. Cậu không nghe. Vua lại mất nhiều thì giờ thuyết phục bà mẹ khuyên con duy nhất còn lại tuân lệnh vua, để mẹ con sống giầu sang vinh hiển. Mặc dầu bà đã chứng kiến sáu cái chết thảm của sáu người con, bà cũng vâng lệnh khuyên con. Bà đã dùng tiếng của tổ tiên để khích lệ con, khuyên con hãy can đảm, theo gương các anh mà tuân giữ luật Chúa.

Vua Antiôkhô nổi giận, ngậm đắng nuốt cay vì bị người con út lăng nhục, nên đã trừng trị cậu tàn bạo hơn những người trước.

Sau cùng, cả bà mẹ, mạnh dạn không sợ hiểm nguy ấy, cũng bị hành hình.

Câu chuyện về bữa tiệc cúng thần, có tám mẹ con vì không chịu ăn thịt heo mà phải chịu các hình khổ quái ác đến chết, được chép trong Kinh Thánh Cựu Ước, sách Macabê, quyển thứ hai, trọn chương thứ bảy.

Isaia dùng heo tuyên sấm

Isaia là tiên tri của lòng tin. Thời những cuộc khủng hoảng xảy ra cho dân tộc Israel, ông đòi hỏi mọi người chỉ tin tưởng nơi một Thiên Chúa. Đó là cơ may giải thoát duy nhất.

Trong một bài sấm về tình cảnh tôn giáo, ông đã mô tả thảm cảnh dân bỏ Chúa, theo bọn ngỗ nghịch đi trên đường bất lương, hùa theo phường bất chính:

Chúng ngồi xó vó nơi mồ mả, thức đêm trong những nơi ngóc ngách, chúng ăn thịt lợn với canh thịt ôi thối trong bát đĩa. (Is 65,4).

Và những kẻ đó sẽ bị Thiên Chúa oán trả.

Sau đó, tiên tri tuyên sấm để vạch tội những kẻ không xứng đáng mà dám tiến vào Đền thờ để dâng tiến lễ tế:

 

Kẻ tế bò, một kẻ sát nhân, - kẻ dâng chiên, một kẻ hạ chó, - kẻ thượng tiến lễ vật, là kẻ dâng tiết lợn, - kẻ dâng hương khấn nguyện là kẻ khâm sùng ma quái. (Is 66,3).

Lại còn những phái “nhiệm” của ngoại giáo cũng mang ảnh hưởng đến dân Chúa. Chúng tụ tập nơi vườn hoang để cử hành cúng tế, rồi ăn uống với nhau những thực phẩm nhơ nhớp. Đó là “những kẻ thanh tẩy, rửa mình tiến vào vườn, tụ tập đằng sau một người đứng ở giữa vườn, chúng ăn thịt lợn, côn trùng và cả chuột. Công việc của chúng, ý nghĩ của chúng sẽ khánh tận một trật. (Is 66,17).

Cuối cùng, Chúa sẽ thâu họp chư dân khắp mọi nước, và mọi người sẽ thấy vinh quang của Chúa. (xem phần cuối của Is 66).

Heo, theo thi ca giáo dục

Thi ca giáo dục của Thánh Kinh làm theo thể văn vần. Trong đó có bài ca nài xin Chúa khôi phục lại dân Ngài, vì dân Chúa đã không còn tuân giữ giao ước. Thánh vịnh ví dân Israel như vườn nho Chúa đã vun trồng, đang xum xuê hoa trái mà sao Chúa bỏ cho hoang tàn:

Làm sao Người nỡ triệt hạ tường giậu nó

Mặc cho khách qua đường bứt quả

Mặc cho heo rừng phá phách tan hoang. (Tv 79, 13-14)

Chúa đã sai các tiên tri kêu gào dân hoán cải để Chúa khôi phục lại dân Người. Nhưng lời kêu gọi như bay vào không gian hoang vắng, dân Chúa như điên dại, không thèm để ý. Sách Huấn ca đã phải than thở:
Với người dại chớ có nhiều lời, đừng đồng hành với con lợn. (Hc 22,13).

Còn sách Cách ngôn, một cuốn sách điển hình nhất của văn chương khôn ngoan Israel, cũng cho rằng người dại khờ khó có thể hiểu được những lời khôn ngoan hướng dẫn, họ giống như:

Đàn bà nhan sắc mà đần,

Khác nào vòng xuyến đeo nhầm mõm heo. (Cn 11,22)

Heo, theo Tân Ước

Nối tiếp Cựu Ước, Tân Ước cũng nêu lên cùng tư tưởng, người điên dại có óc như óc lợn, thường khinh rẻ lời khôn ngoan châu ngọc hướng dẫn, Phúc âm Thánh Matthêu chép: “châu ngọc chớ quăng trước bầy heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi quay lại cắn xé anh em. (Mt 7,6).

Như chúng ta đã biết, đối với dân Israel, heo là vật nhơ nhớp, không được ăn thịt, nên chắc chắn không nhà nào nuôi heo. Nhưng với dân ngoại, người ta vẫn nuôi heo từng đàn, không cần chuồng trại như ở Việt Nam, mà lùa đi thả ăn như đàn cừu. Có đàn lớn lên đến hàng ngàn con. Điều này đã được Phúc Âm thuật lại.

Trong Phúc âm nhất lãm, cả ba tác giả Matthêu, Maccô và Luca đều trình thuật về đàn heo và người bị quỷ ám, tuy có đôi chút khác biệt. Matthêu nói có hai người bị thần ô uế ám tại Gađara, còn Maccô và Luca thì kể một người bị đạo binh quỷ ám tại Ghêsara, từ trong mồ mả ra đón gặp Chúa Giêsu. Chúa trừ quỷ cho anh ta. Quỷ đã xin Người cho chúng nhập vào đàn heo.


Theo Thánh Matthêu: Có một đàn heo nhiều con được thả chăn cách đó xa xa. Ma quỷ nài xin Ngài rằng: Nếu Ngài đuổi chúng tôi xin hãy sai chúng tôi vào đàn heo. Ngài bảo chúng: Đi đi!. Xuất ra chúng nhập vào đàn heo, và này tất cả đàn heo theo sườn núi chênh vênh, xồng xộc nhào xuống biền, mà chết dưới nước. (Mt 8,30-32).

Thánh Luca cũng nói đàn heo khá đông (Lc 8,32), còn Thánh Máccô thì kể rõ số heo: cả bầy heo chừng hai ngàn con… Các kẻ chăn heo bỏ chạy, loan tin trong thành và thôn xóm. (Mc 5,13-14).

Người chăn heo

Người chăn heo Palestin thời Chúa Giêsu có lẽ nghèo đói và bẩn thỉu hơn người chăn chiên, họ thuộc loại hạ cấp, cùng đinh trong xã hội. Chuyện người con phung phá Thánh Luca thuật lại chứng tỏ điều đó.

Một chàng thanh niên con nhà giầu, đòi bố chia gia tài. Rồi lấy tiền của đó đi kết bè kết đảng, tiêu pha phung phí, ăn chơi đàng điếm. Lúc hết tiền, bạn bè ăn nhậu đều xa lánh. Miền đó lại gặp nạn đói, anh ta phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng, ông chủ bắt anh ta ra đồng trông coi đàn lợn. Anh ta ước gì có thể lấy những muồng muồng heo ăn mà thốn cho đầy bụng mà cũng chẳng có ai bố thí cho. (Lc 15,15-16). Lúc ấy anh ta mới hối hận mò về…

Anh ta được người cha nhân hậu tiếp đón niềm nở, sai mở tiệc ăn mừng. Không biết sau đó anh ta có chí thú làm ăn lương thiện trong nhà cha, hay lại theo lối xưa, ngu xuẩn quay lại với sự điên dại cũ, như Thánh Phêrô cành cáo:

Heo tắm sạch lại tìm rạch đẵm bùn. (2Pr 2,22).

Người gọi heo rừng

Để kết thúc chuyện heo theo Thánh Kinh, chúng tôi xin kể lại một chuyện lạ Chúa làm nơi tín hữu tồ tiên chúng ta, ngày Tin Mừng mới được gieo rắc trên quê hương Việt Nam. Câu chuyện được chính Thừa sai Alexandre De Rhodes (cha Đắc lộ) tường thuật trong “Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài” cuốn thứ hai, chương bốn mươi tám.

Ngày xưa, trong mùa Chay tín hữu công giáo phải kiêng thịt trong suốt 40 ngày. Vào một chủ nhật lễ Phục Sinh thập niên 1640, có một giáo dân rất đạo hạnh tên thánh là Simon, ở thôn Tam Giang (Tamdang), một tỉnh miền tây sông Hồng. Ông có việc vào rừng, thấy một con heo rừng đang sục sạo kiếm ăn. Ông đơn sơ ước muốn xin Chúa ban cho ông một ơn, như thường ban cho người lành, là xin cho ông có thể truyền khiến được con heo rừng vâng phục mình. Ông liền làm dấu Thánh giá và đọc một Kinh Lạy Cha. Sau đó ông điềm đạm, đầy tin tưởng và gọi con heo rừng đến gần ông. Con heo rừng vâng theo, trở nên hiền lành như con cừu, không chống cự ngay cả khi người ta thọc tiết.

Thế là cả xóm đạo được ăn mừng lễ Phục Sinh bằng một bữa cỗ thịt heo rừng thịnh soạn, sau một mùa Chay đã giữ nghiêm ngặt luật kiêng thịt. Ông Simon cũng cho mời cả người nghèo trong thôn đến dự, và xin mọi người cảm tạ và chúc tụng Thiên Chúa vì ơn Người mới ban cho.

Kính chúc quý vị một Tết Nguyên Đán vui vẻ, và năm mới được Chúa ban ơn theo ý nguyện, như xưa ông Simon đã nhận được ơn Chúa một cách nhãn tiền và cụ thể.

(Arlington, Tết Đinh Hợi 2007)

Hoàng Đức Trinh

Chú heo trong sử Việt

So với những con vật khác trong 12 con giáp, chẳng hạn như ngựa, voi, trâu, rồng… có lẽ heo là con vật ít có cơ hội được nói đến nhất trong lịch sử Việt Nam hơn cả. Tuy nhiên, chú heo vẫn là một trong các con giáp được nhắc đến sớm nhất.

Trong sự tích "Bánh chưng, bánh dày", khi vua Hùng Vương muốn chọn người nối ngôi trong số các hoàng tử, ngài truyền cho các hoàng tử mỗi người làm một món ăn đặc sắc nhất tiến vua để ngài bình chọn. Trong các hoàng tử, có Lang Liêu là người con rất có hiếu nên chàng đã được Thần nhân ứng mộng dạy cho cáCh làm bánh dầy (tượng trưng cho trời), bánh chưng (tượng trưng cho đất).

Những chất liệu làm nên hai loại bánh này được xem như sự hài hòa giữa trời và đất, trong đó có thịt heo đóng vai trò quan trọng đem lại hương vị thơm ngon, quyến rũ cho bánh chưng. Nhờ cặp bánh độc nhất vô nhị này, Lang Liêu đã được vua Hùng chọn làm thái tử nối ngôi vua.

Giai thoại thứ hai, xét theo thứ tự thời gian, có liên quan đến chú heo. Đó là chiến thắng của danh tướng triều Trần, Trần Khát Chân đã giết được vua Chiêm Thành Chế Bồng Nga trên sông Hải Triều (tức sông Luộc). Chuyện xảy ra vào đời mạt Trần, dưới thời vua Trần Nghệ Tông. Nghệ Tông là một ông vua nhu nhược, hôn ám, tin dùng quyền thần Hồ Qúy Ly khiến nhà Trần mau chóng suy yếu và diệt vong về tay Quý Ly.

Về phía Chiêm Thành, vua Po Binaswar, sử ta gọi là Chế Bồng Nga, là vị vua hùng tài nhất trong lịch sử nước Chiêm. Thấy nước Việt suy yếu Bồng Nga nhiều phen đem binh sang cướp phá. Có lần đã đốt phá cả kinh thành Thăng Long, khiến Trần Nghệ Tông phải chạy sang Bắc Ninh, mang vàng bạc châu báu chôn giấu ở núi Thiên xiện. Thời đó, các quân tường được sai đi chống quân Chiêm đều nơm nớp lo sợ, coi như có đi mà không có về.

Năm Kỷ Tị (1389), quân Chiêm lại sang đánh. Thượng Hoàng Trần Nghệ Tông sai Trần Khát Chân làm Đô tướng thống lĩnh quân Long Tiệp đi đánh giặc. Lúc xuất quân, Khát Chân và Thượng hoàng đều khóc tiễn biệt. Quân ta xuất phát từ sông Lô (tức sông Hồng), gặp giặc ở Hoàng Giang. Thấy địa thế không thuận lợi để chống giặc, Khát Chân bèn lui quân về giữ tại sông Hải Triều.

Thủy quân Chiêm đóng ở bờ phía Nam, thủy và lục quân Việt đóng ở bờ sông phía Bắc. Chiều 24 tháng Giêng, tên đầu bếp của Chế Bồng Nga tên là Ba Lậu Kê dâng lên vua món giò heo hầm chưa được mềm. Vua ăn không ngon miệng, sai quân đánh Ba Lậu Kê 30 hèo. Sợ bị giết, đêm ấy đầu bếp Ba Lậu Kê thừa lúc tối trời đi thuyền nhỏ trốn sang trại quân Việt đầu hàng, khai báo binh tình của Chế Bồng Nga, chỉ vào chiến thuyền sơn xanh, cho biết đó là thuyền vua.

Sáng 25, hai bên khai chiến. Khát Chân hạ lệnh cho quân sĩ nhất tề nã tên đạn vào thuyền Chế Bồng Nga, thuyền bị thủng ván và Bồng Nga trúng đạn chết. Trần Nguyên Diệu là tôn thất nhà Trần, trước đã hàng Chiêm Thành, bây giờ lại trở mặt, vội cắt lấy đầu Bồng Nga đem qua trại quân Việt dâng công. Gặp ngay tướng Phạm Nhữ Lặc vung kiếm giết luôn Nguyên Diệu, chiếm đầu Bồng Nga đem về báo tiệp.

Tướng Chiêm là La Khải thu góp tàn quân, về Chiêm Thành lên ngôi vua. Trần Khát Chân sai bỏ đầu giặc vào hòm, đi thuyền gấp về Bình Than báo tin với Trần Nghệ Tông. Xét ra chỉ vì một món giò heo hầm mà một ông vua kiêu hùng phải thiệt mạng, làm sụp đổ cả một ngai vàng!

Giai thoại thứ ba, là chuyện Trư vương (vua heo) làm mất nhà Lê. Cuối đời nhà Hậu Lê, do vua Lê Uy Mục hoang dâm, bạo ngược (sứ Trung Quốc đời nhà Minh gọi vua là Quỷ Vương), các tôn thất và công thần bị đánh đuổi, bắt bớ.

Tháng 12 năm Kỷ Tị (1509), trong số hàng thân bị hạ ngục có Giản Tu Công tên Oánh. Oánh đút vàng bạc cho cai ngục, vượt ngục trốn vào Thanh Hóa, rồi hội với các quan cựu thần đem binh ra đánh bắt được Uy Mục, phế xuống làm Mẫn Lệ Công, ép uống thuốc độc mà chết. Giản Tu tự lập làm vua, tức là Vua Lê Tương Dực, lấy niên hiệu là Hồng Thuận.

Lên tước vị rồi, Tương Dực tỏ ra còn chơi bời và xa xỉ tệ hại hơn cả Qủy Vương. Vì thế sứ nhà Minh sai Vũ Như Tô xây điện 100 nóc (Bách Sạn Điện) và xây Cửu Trùng đài. Từ đó loạn tặc nổi lên như ong. Các điềm tai dị xảy ra. Năm Quý Dậu (1513) có ba ngày lụt lội ở kinh thành. Gặp chuyện Nguyên quân công là Trịnh Duy Sản trước có công đi đánh giặc, sau do can vua nên bị Tương Dực đánh đòn oan. Duy Sản nổi giận, giả mượn tiếng đi dẹp giặc, đem quân vào cửa Bắc Thần giết vua. Tương Dực trị vì được 8 năm, thọ 24 tuổi, Duy Sản lập Quang Trị 8 tuổi làm vua, sau lại lập Lê Ỷ tức là vua Lê Chiêu Tông.

Những câu chuyện kể trên, theo nghĩa đen hoặc nghĩa bóng, đều có liên quan đến chú heo, xem như các giai thoại thú vị được nhắc lại nhân dịp xuân Đinh Hợi, đồng thời để ôn lại một số giai đoạn thăng trần, hào hùng của lịch sử dân tộc.

(Theo CATPHCM số Xuân)

Chú lợn trong lễ hội và ẩm thực ngày tết

 

Ở nước ta, lợn được thuần hóa từ lâu. Có người nói lợn xuất hiện từ thời vua Hùng.

Trong truyện Cao Sơn và Quý Minh của Truyền thuyết Vua Hùng do Sở văn hoá - Thông tin Vĩnh Phú (trước đây) có ghi: "Khi Thục An Dương cho quân đánh vào đất Văn Lang, Hùng Vương triệu Tản Viên về hỏi kế và giao cho cầm quân chống nhà Thục. Tản Viên cho gọi Cao Sơn và Quý Minh đi theo. Cao Sơn và Quý Minh, bộ tướng của Tản Viên, về trang Thanh Uyên chiêu tập được 200 người, sắm sửa khí giới lương thực.

Họ dạy quân làm bánh dày, xôi nén làm lương ăn dọc đường. Hai ông còn cho mổ lợn, chỉ ăn lòng gan còn ướp muối mang theo… Quân của họ đi đến tối tới Xuân Quang, dân làng dắt trâu ra mừng quân lính. Hai tướng cho thịt trâu, mổ lột da, căng lên làm nồi, bày thịt lên mâm đan bằng tre, ăn vội vàng rồi kéo quân đi. Tản viên bị quân Thục bao vây… Cao Sơn và Quý Minh chia quân đánh, cứu được chủ tướng".

Như vậy, thịt lợn đã là thức ăn phổ thông của dân Văn Lang. Không những ăn thông thường mà còn biết ướp muối để dùng lâu dài.

Trong các vật dâng tế lễ, lợn cũng được dùng phổ biến hơn cả so với trâu, dê… Cỗ tam sinh thì có đủ cả ba thứ con ấy, nhưng thông thường trong năm, bên cạnh mâm xôi là cái thủ lợn luộc được đem tế thần trong ngày lễ lớn, lễ chính… cùng với những mâm xôi gà.

Có nơi, trong ngày hội thánh nhất thiết phải dùng lợn cúng, gọi là cầu hèm. Ở Lỗ Trì (Nay là xã Phù Lỗ, Lâm Thao, Phú Thọ) dân có tục cầu hèm như sau: Mỗi giáp trong làng sửa soạn một con lợn đen, trước ngày lễ hội cầu hèm rước ra bãi cầu, với trống mõ đi theo đánh sôi nổi. Chủ tế sai bảo các trai làng chặt vầu, nứa làm mâm và làm ống để luộc lòng lợn.

Lợn cầu hèm được thịt, làm lòng rồi treo lên cành cây quanh bãi… Dân làng lấy giấy đỏ, cắt hình vuông mắt lưới buộc vào các cây sào, dựng bên cạnh, tượng trưng cho lưới săn… Cỗ tế còn có xôi nén và bánh ót. Khi tế hèm xong, dân làng ngã cỗ ăn uống ngay tại bãi. Ăn xong, chờ thắp hết tuần nhang, chủ tế nổi chiêng, trống ra hiệu cho làng vào cướp lưới và khiêng lợn về. Giáp nào cướp giỏi, đem các mảnh lưới bằng giấy cướp được, dán ở nhà, còn thịt lợn thì chia đều thụ hưởng. Họ tin rằng như thế công việc làm ăn cả năm sẽ phát đạt.

Lễ hội cúng hèm, cướp lưới, cướp lợn này, cho thấy xa xưa, tổ tiên của làng đã biết dùng lưới săn bắt lợn rừng về làm thực phẩm.

Nhiều làng ở xứ Đoài xưa (tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay) cũng có những quy định về con lợn trong ngày lễ hội dùng để tế thần của làng… Mỗi làng có một lệ khác nhau. Ở làng Tích Sơn thuộc thị xã Vĩnh Yên, để có lợn tế vào mồng ba tháng Giêng, thì từ 25 tháng Chạp, những người đăng cai được giao cho nuôi lợn thờ, phải làm chuồng ngay trong sân, bằng các loại tre, gỗ chắc chắn.

Đêm mồng hai, trước ngày kỵ của thành hoàng, các chức dịch và trai tráng la hét, xông đến phá cổng nhà nuôi, vào sân, phá chuồng bắt lợn. Lợn tế được đem tắm rửa sạch sẽ rồi theo cờ làng, kèn trống, rước đến sân đình. Tại đây, người khỏe, giỏi nhất, chém lấy đầu lợn, rồi lấy cái đầu lợn dâng lên cúng thần. Sau đó mới hạ xuống, làm lông, luộc và chia phần cho các quan viên.

Ở làng Lạc Ý (Vĩnh Yên), đến ngày lễ hội, tám giáp phải lo tám chú ỉn đen tuyền, chọn những trai tráng, những nhà không có tang làm đồ tể. Mỗi giáp có một con dao dài hai thước (0,8m), mỗi năm chỉ dùng một lần trong ngày giết lợn tế thần. Sáng mồng ba Tết, dân làng rước thánh ra gò, lập bàn thờ. Trên bãi đất gò, đào sẵn tám hố sâu gọi là lỗ lợn, mỗi hố thả một con lợn tế… Mỗi trưởng giáp, thường là một cụ già, đến trước hố, xin quẻ âm dương. Ai gieo được đúng sấp, ngửa đầu tiên thì được chọn vào mệnh bái buổi tế.

Sau đó gieo quẻ tiếp, xin giết lợn. Những trai tráng của giáp được trực sẵn bên lỗ lợn, khi xin được âm dương sẽ cúi xuống tóm lấy lợn, quật lên trên tấm ván. Hai người thật khỏe, người giữ chân, người giữ đầu để người thứ ba vung dao chém đứt cổ, rồi xách đầu lợn đặt lên mâm tre trên bàn thờ thần. Chém xong tám thủ cấp lợn, đám trai làng mổ lợn lấy tám lá mỡ phủ lên thủ lợn, đem tám bong bóng lợn buộc vào cành tre cắm bên cạnh.

Thịt lợn thì bày làm tám mâm cúng, mỗi mâm không được quên bày mật, đuôi và cái lăm lợn (vai) sống và một số món ăn chín khác. Các lễ vật được các giám tế cho là hoàn tất, làng mới được phép tế thần. Qua cách dâng lễ vật cho thần cũng đủ thấy tinh thần thượng võ, nghi lễ nghiêm cẩn được truyền lại từ thời thượng cổ.

Ở Hương Canh (Bình Xuyên) thờ ba cha con Ngô Quyền, lại có lệ cúng lợn hèm riêng, cúng bằng lợn quay trên than hồng. Ba làng Hương Canh, ngoài lễ vật dâng tế là mâm xôi trắng, thủ lợn, còn phải có một con lợn quay chín.

Lợn chọn con vừa phải (lợn thuổi) chừng dưới 3kg, gọi là lợn "chém giống". Lợn "chém giống" nếu là lợn rừng (săn ở Tam Đảo) thì càng tốt. Trước khi dâng tế, lợn được đem ra miếu Hạ chọc tiết, rồi khiên lên miếu Thượng làm sạch lông, thui vàng, cho lên than hoa quay chín vàng, rồi đặt vào mâm đồng cỡ lớn, khiêng vào đỉnh dâng tế.

Trong ngày Tết, những món ăn được chế biến từ thịt lợn khá phong phú nhất là món giò, chả, nem. Thịt lợn nạc giã nhuyễn có thể nặn thỏi tròn hoặc dẹt, để trần đem rán thì thành chả. Chả quế thì cầu kỳ hơn, phải quấn quanh ống tre đem nướng trên than hồng. Cũng giò sống ấy trộn với thính gạo rang, kèm lá sung, lá ổi gói vào, trộn lẫn với bì luộc thái mỏng, để mấy ngày bóc ra ăn thì được nem chua.

Thịt thủ, luộc, rồi thái mỏng đảo mỡ, cho thêm mộc nhĩ, nấm hương, đem bó lá thì được giò thủ… Chân giò lóc lấy da có thể băm thịt nhỏ, lẫn mộc nhĩ, nấm hương, nhồi (phá xí) rồi khâu lại, luộc chín, dùng hai thanh tre ép lại để róc nước, ta sẽ được món giò chân ăn rất ngon. Rồi sườn xào chua ngọt, thịt lợn băm viên nhỏ bao nấm hương thả vào canh bóng, đều là những món ngon trong ngày Tết.

(Theo Nhân Dân)

SỐNG CHỨNG NHÂN

 

TƯƠNG QUAN ĐỨC TIN GIỮA CHA MẸ VÀ CON CÁI

Bà Marta Brancatisano là bà mẹ gia đình có 7 người con. Bà tốt nghiệp luật tại đại học Sapienza ở thủ đô Roma vào năm 1968. Nhưng rồi bà xếp bằng cắp vào tủ khi lập gia đình, để dành trọn thời giờ lo cho chồng con. Trong 14 năm bà lần lượt cho ra chào đời 7 đứa con. Cùng thời gian này bà chú ý đến nền sư phạm và việc hỗ trợ giới phụ nữ trong khung cảnh nghề nghiệp và gia đình.

Năm 1992, bà trở lại môi trường đại học với tư cách nữ trợ tá. Hai năm sau, bà dấn thân trong lãnh vực ”Định Hướng gia đình”. Bà lần lượt xuất bản các tác phẩm liên quan đến hôn nhân, gia đình và giáo dục con cái.

Hiện tại bà là giáo sư được mời dạy tại Đại Học Giáo Hoàng Thánh Giá ở thủ đô Roma với khóa học về đề tài ”Tình Yêu, Gia Đình, Giáo Dục”. Sau đây là chứng từ của bà về việc cha mẹ tiếp tục giáo dục Đức Tin cho con cái, dầu khi con cái đã trưởng thành.

Bậc cha mẹ nào được Đức Tin soi sáng hướng dẫn đều tiếp tục yêu thương con cái một cách vô-điều-kiện cho dù con cái đã trưởng thành, lập gia đình và ra ở riêng. Có đứa con khi khôn lớn lại chọn lối sống khác xa lối sống cha mẹ dày công giáo dục. Rồi cũng có đứa con bỏ rơi Đức Tin khiến bậc cha mẹ Công Giáo thật đau lòng.

Quan hệ giữa cha mẹ với con cái trưởng thành thường chuyển sang một hình thức khác. Lúc con còn nhỏ, cha mẹ dạy-dỗ, uốn-nắn, sửa-sai và hướng-dẫn. Khi con trưởng thành cha mẹ vẫn tiếp tục theo dõi con cái trong tình yêu thương nhưng cha mẹ tôn trọng tự do của con cái. THIÊN CHÚA tôn trọng tự do con người thế nào cha mẹ cũng tôn trọng tự do con cái trưởng thành như thế.

Tuy nhiên, tôn trọng tự do không có nghĩa bỏ mặc con cái muốn làm gì thì làm. Không phải thế. Khi cần, cha mẹ vẫn tìm cách trao đổi đối thoại với con cái đã trưởng thành.

Cũng có trường hợp, im lặng chính là vàng. Cha mẹ hiện diện tham dự các sinh hoạt của con cái, nhưng tránh việc can thiệp trực tiếp hoặc quá đáng vào cuộc đời con cái. Đôi khi sự hiện diện trong thinh lặng được con cái trưởng thành đánh giá thật cao vì chúng cảm thấy cha mẹ kính trọng nhân phẩm mình. Các bậc cha mẹ khôn ngoan và cởi mở thường biết tiếp nhận cả những bài học đến từ phía con cái nữa.

Ngày xưa ở vào thế hệ chúng tôi - trước thập niên 1960 - chúng tôi sống Đức Tin trong việc chiêm ngắm chân lý. Chúng tôi dễ dàng tiếp nhận Đức Tin không thắc mắc bàn cãi.

Nhưng giới trẻ ngày nay không muốn tiếp nhận Đức Tin cách máy móc. Chúng muốn tìm hiểu sâu xa hơn. Chính lúc này, bậc cha mẹ nên ghi nhớ nét đặc thù của Đức Tin Công Giáo: Đức Tin là mối quan hệ tình yêu thực tiễn và cá nhân. Tín hữu Công Giáo có mối quan hệ sống động trực-tiếp và riêng-tư với Đức Chúa GIÊSU KITÔ, Đấng đã mặc lấy xác phàm vì yêu thương nhân loại.

Trước khi nói về Đức Tin và thông truyền Đức Tin cho con cái, cha mẹ phải yêu thương và thông truyền tình yêu cho con cái. Việc thông truyền Đức Tin đặt trên nền tảng tình yêu sẽ dễ dàng được tiếp nhận và mang nhiều hoa quả.

Trong mọi lứa tuổi của con cái, gương lành của Cha Mẹ là phương thế tuyệt hảo nhất để giáo dục con cái.

Nếu bậc Cha Mẹ Cao Niên - trở thành Ông Bà Nội Ngoại - tiếp tục đậm đà yêu nhau thì chính cuộc sống yêu thương sẽ thông truyền cho con cái cháu chắt niềm bình-an và hạnh-phúc. Chứng tá yêu thương là hình ảnh thực tiễn nhất minh chứng mối tình trung tín suốt đời. Đây là gương lành tuyệt đẹp cha mẹ ông bà nói với con cháu:

- Tình yêu kéo dài mãi mãi. Chính trên tình yêu vô điều kiện và không giới hạn mà Đức Tin Công Giáo được xây dựng và được thông truyền từ thế hệ này sang thế hệ kia.

... ”Vậy như anh chị em đã nhận Đức GIÊSU KITÔ làm Chúa, thì hãy tiếp tục sống kết hiệp với Người. Anh chị em hãy bén rễ sâu và xây dựng đời mình trên nền tảng là Đức Chúa GIÊSU KITÔ, hãy dựa vào Đức Tin mà anh chị em đã được thụ huấn, và để cho lòng chan chứa niềm tri ân cảm tạ. Hãy coi chừng chớ để ai gài bẫy anh chị em bằng mồi triết lý và những tư tưởng giả dối rỗng tuếch theo truyền thống người phàm và theo những yếu tố của vũ trụ chứ không theo Đức Chúa GIÊSU KITÔ” (Cô-lô-xê 2,6-8).

(”NOI Genitori e Figli”, 25 Giugno 2006, n.98, Anno X, trang 21-23).

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH

Tâm lý giáo dục :

 

“Hành trang nào cho con vào đời?”

 

KHÔNG SỐNG CHO RIÊNG MÌNH

 

 

 “Chúng ta không thể chỉ sống cho bản thân.

Có hàng ngàn sợi dây buộc ta với đồng loại ”.

 Herman Melville

 

 Bài học từ các cô cậu bé bỏng:

 

Một em bé học sinh tiểu học. Cậu đã rất hào hứng và nôn nóng được tham gia vào hội thi thể thao của trường. Trên khán đài, ba mẹ cậu theo dỏi đầy hy vọng. Dưới đường đua. Cậu bé đã chạy và đã thắng cuộc. Cậu bé rất tự hào về dải “ruybăng” deo chéo ngực và những tiếng chúc mừng từ đám đông.

 

Đến chặng đua thứ hai, cậu vẫn dẩn đầu, nhưng khi đến sát đích,  cậu bé đột nhiên dừng lại, đứng vào một bên đường đua. Ba mẹ cậu sau đó đã hỏi rất nhẹ nhàng: “Kelly, sau lúc đó con làm vậy? Nếu con tiếp tục chạy, con sẽ thắng nữa mà!”

 

Cậu bé trả lời hết sức ngây thơ: “Nhưng mẹ ơi, con đã có một dải ruy-băng rồi, Billy thì chưa có!”

 

Lại một câu chuyện dễ thương khác làm các bậc phụ huynh  phải suy nghĩ. Một bà mẹ đã kể:

 “Hôm ấy tôi đang dọn sạch mấy túi áo lạnh của con gái sáu tuổi, thì phát hiện ra ở mỗi túi có hai đôi găng tay. Nghĩ rằng một đôi thôi cũng đủ giữ ấm tay rồi, tôi hỏi con vì sao mang tới hai đôi trong túi. Con tôi trả lời: “Con làm vậy từ lâu rồi, mẹ, mẹ biết mà, có nhiều bạn con đi học mà không có găng. Nếu con mang thêm một đôi, con có thể cho bạn mượn và tay các bạn sẽ ấm.”

 

Trẻ con là thế đó, chúng không nghĩ đến lợi riêng, thắng-thua không quan trọng, chúng rất nhạy cảm với nhu cầu của người khác. Cái Tâm của chúng còn trong suốt để có thể nhìn thấy và rung cảm với niềm vui hay nỗi đau của người thân cận. Khi làm người lớn, kinh nghiệm bon chen với cuộc sống, con tim chúng ta mất đi độ nhạy bén, có khi vì những trăn trở, vật lộn với đời, lòng chúng ta dễ trở nên chai cứng chăng?

 

Với tuổi thanh thiếu niên, con em chúng ta vào đời với lòng nhiệt tình, trong sáng và quảng đại … Xin phụ huynh giúp chúng bảo tồn được nét đẹp này , hay ít ra là kéo dài thêm trong cuộc sống. Quý vị đã cho con em cuộc sống trên đời, cho chúng của ăn, cái mặc, vốn liếng học thức, đạo đức … Nhưng nếu giúp chúng có một cuộc sống đầy ý nghĩa, với những niềm vui thanh cao, thì tình yêu con của quý vị thật đúng nghĩa và trọn vẹn.

 

Phải, chỉ những ai biết cống hiến chân tình và vị tha mới trải nghiệm niềm vui sâu xa của cuộc sống và sự tràn đầy thật sự … (Theo Lưu Dung)

 

“Xã hội này thật có nhiều điều, nhiều nơi để cống hiến. Ngoài những vật hữu hình, chúng ta còn cung cấp cho mọi người sự cổ vũ, khích lệ tinh thần khiến cho thế giới này đâu đâu cũng tràn đầy niềm vui.”

 

Hiện thời đời sống vật chất ở thành thị hay thôn quê, đâu đâu ít nhiều điều được cải tiến, nhưng đời sống tinh thần lắm khi lại bị tụt hậu. Bao nhiêu người nhận xét về sự băng hoại trong thực tế về mặt đạo đức và giá trị tinh thần sa sút, một tác giả vô danh đã đề nghị chúng ta “Nên suy nghĩ lại” vì:

 

“… Chúng ta ngày càng có nhiều cao ốc hơn, và nhiều xa lộ rộng hơn, nhưng lòng khoan dung lại thấp đi và tinh thần hẹp hòi hơn …

 

Chúng ta nói năng nhiều hơn, nhưng yêu mến ít và lòng thù ghét quá nhiều …

Chúng ta có của cải tăng nhiều lần, nhưng giá trị mình giảm lại …

Chúng ta có thu nhập cao hơn, nhưng luân lý đạo đức kém đi …

Chúng ta đã lên mặt trăng và trở về trái đất, nhưng lại cảm thấy khó khăn khi băng qua đường để thăm người hàng xóm …”

Niềm vui thanh nhã và sâu lắng chính là những lúc chúng ta quên mình và sống cho người khác.

 

Quý phụ huynh cần giúp con em mở lòng mình, mở cửa nhà để chia sẻ, và để làm sao cho:

 

“Hương thơm trong nhà nho nhỏ của mình lan tỏa đến nhà bên cạnh và đến nhiều người càng tốt.

Niềm vui chật hẹp của mình lan rộng tới mọi ngõ ngách của xã hội;

Lò lửa trong nhà chúng ta sưởi ấm mọi trái tim lạnh giá;

Ngọn đèn trước thềm nhà chiếu sáng đường đi cho người về khuya.”

 

(Lưu Dung)

 

Sống cho người khác lại làm cho cuộc sống chúng ta trở nên sung mãn hơn, nhẹ nhàng hơn, ý nghĩa và phong phú hơn.

 

“Chính lúc hiến thân là lúc nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân …” (Francis Assis)

 

Chúng ta cần chia, cần cho, cần cống hiến những gì chúng ta có, và rồi chúng ta sẽ nhận lại niềm vui tinh thần. Người ta thường nói khi rắc nước hoa cho người khác, chúng ta cũng được thơm lây. Thật ra, đây không phải là điều chúng ta tìm kiếm, không phải vì lợi lộc của chính mình, nhưng thực tế đã cho thấy, người đầu tiên nhận hoa trái của sự tốt lành, quảng đại chính lại là bản thân người đã cho đi.

 

“Từ nụ cười của người khác, ta nhìn thấy nụ cười của chính ta.”

 

(Lưu Dung)

 

Theo Đạo Đức Kinh, Thầy Khổng Tử đã nhắc nhở chúng ta rằng:

 

“Sở dĩ trời đất trưỡng cửu được là vì chúng không sống cho riêng mình, mà sống cho vạn vật nên mới trường cửu.”

 

Các Thánh hiền xưa đã răn dạy chúng ta rất nhiều, ngay cả trong bổn phận và nghề nghiệp chúng ta luôn để ý đến cái ích lợi cho người khác trong những gì chúng ta làm:

 

“Làm quan cốt để giúp đời, phải đâu riêng hưởng một đời ấm no.”

 

Tinh thần vì người khác, vì ích chung luôn được chú trọng trong giáo dục của các đạo, các nhà hiền triết. Tuy thế, dường như trong xã hội ngày nay, điểm son của tính vị tha và hướng tha bị phai mờ vì chủ trương lợi nhuận của kinh tế thị trường. Cá nhân chủ nghĩa cũng đã và đang ảnh hưởng lên cách sống, cách ứng xử của nhiều người, nhất là giới trẻ. Ước mong phụ huynh và nhà giáo tìm cách chuyển tải và duy trì những giá trị truyền thống cao cả này cho thế hệ con cháu chúng ta. Những người sống cho người khác đều đáng kính, và nhất là đáng tin.

 

“Người nào coi trọng sự hy sinh cho thiên hạ, thì có thể giao thiên hạ cho người đó được. Người nào đem thân mình vui vẽ phục vụ thiên hạ, thì có thể gởi thiên hạ cho người đó được” – Luận ngữ

Tuổi trẻ chưa có bạc vàng hay của cải gì, nhưng chúng ta có tấm lòng. Lòng tốt luôn có phản hồi. Vì những gì chúng ta đã gieo, chúng ta sẽ gặt hái, cái gặt đầu tiên là sự kính trọng, niềm vui sâu xa và an bình nội tâm của kẻ không sống chỉ cho riêng mình.

 

“Người ta kính trọng bạn không phải vì những gì bạn đã nhận được, sự kính trọng là phần thưởng dành cho những gì bạn đã cho đi.”

 

(Lưu Dung)

 

Thật vậy,

 

Khi chúng ta tạo cho người khác cơ hội, thì đừng cho rằng đó chỉ là đem lại lợi ích cho người khác, mà kỳ thực cũng là đem lại một cơ hội cho bản thân ta.”

 

(Lưu Dung)

 

Sau đây, xin được chia sẻ cùng quý phụ huynh câu chuyện đơn sơ nhưng đầy sự khuyến khích, giúp nhau hết mình và hết tình.

 

 Một thanh niên nhà nghèo, vừa học vừa đi làm thêm. Một hôm chàng gần như kiệt sức vì vừa đói lại vừa khát, chàng đã ghé nhà một người xin chút gì để uống. Đấy là một gia đình nghèo, bà mẹ vui vẻ dặn các con lấy cho chàng một ly sữa thật đầy, chàng thanh niên ấy hết sức cảm kích vì thái độ này. Mấy chục năm sau, chàng ra trường và làm bác sĩ ở một bệnh viện.

 

Một hôm mắt chàng gặp phải một cái tên và con người quen thuộc, dần dần nhớ lại hình ảnh người mẹ năm xưa với ly sữa đầy … Lúc ấy, bà đang mang bệnh nan y và thiếu phương tiện chữa chạy, chàng đã trấn an người phụ nữ đồng thời chăm nom hết sức tận tình. Khi đã điều trị xong, gia đình đang lo lắng sẽ nhìn thấy cái hóa đơn khủng khiếp, nhưng khi mở ra thì hóa đơn lại ghi:

 

Chi phí điều trị = giá bằng môt ly sữa.

 

Niềm vui lại tràn ngập những con tim, người cho cũng như kẻ nhận, bắt đầu bằng cho đi, kết thúc bằng nhận lại một cách tràn đầy không ngờ!

 

 Với sự sẻ chia, về mặt tinh thần cũng như vật chất, chúng ta không trở nên nghèo đi, trái lại, chúng ta lại trở nên giàu có, phong phú hơn. có khi gieo tinh thần chúng ta gặt hái của cải, và ngược lại …

 

Trí tuệ giàu lên nhờ cái nó nhận được.

 

Con tim giàu lên nhờ cái nó cho đi.

 

Không sống chỉ cho riêng mình mà thôi! Chúng ta cùng sẻ chia cho nhau những gì tốt, đẹp, hay, vui … cho người xa, kẻ gần, chúng ta không ngại chia sẻ cái hay mà còn cả những điều nhỏ mọn, tính yếu hèn của mình nữa, “của ít lòng nhiều” có khi còn quý hơn, xin phụ huynh giúp con em chúng ta vào đời với một tấm lòng nhân hậu, bàn tay mở rộng để giúp đở và sẻ chia với người quanh mình, dù những gì chúng ta có chỉ là những điều rất nhỏ bé, tầm thường. Thiên Chúa yêu thích những món quà nhỏ bé, và đánh giá rất cao hai đồng xu của bà góa. Quan trọng nhất vẫn là tâm tình gói ghém bên trong:

 

Của trời như hạt sương sa,

Ai ơi lãnh nhận để mà cho đi.

Lòng nhiều của ít ngại chi,

Sương muôn hạt nhỏ nhiều khi mát trời.

 

(Vô Danh)

 

NT. M. Thécla Trần Thị Giồng

TS Tư Vấn Tâm lý

 

YÊU LÀ NHÌN

Nhìn là truyền thông ở mức độ thấu cảm, hiểu biết, cảm thông và tha thứ. Đây là một nghệ thuật của Lm Anthony de Mello Sj giúp bạn ra khỏi những khó chịu trong tương quan hàng ngày  với người yêu của mình, nhờ đó bạn có thể tạo được bầu khí  vui tươi để nuôi dưỡng tình yêu. Trong đó, bạn tự khám phá ra  rằng chính  suy nghĩ, quan điểm của bạn làm cho bạn khó chịu  chứ không phải do người kia đã gây nên cho bạn. Có bốn trường hợp sau đây.

1. Khi bạn cảm thấy khó chịu về một tính xấu  của một người bạn, bạn hãy nhìn lại chính mình xem mình có  chung tính xấu với người đó không. Ví dụ như tính ích kỉ, tính tự ái, tham ăn…Trên thực tế, hai người ích kỉ thì rất nghét nhau, hai người cùng tự ái thì không ưa nhau, và hai người tham ăn thì chẳng bao giờ ngồi chung trong một bàn cơm. Nếu bạn biết, nhìn lại chính mình, bạn sẽ cám ơn người bạn đó thay vì khó chịu vì nhờ họ mà bạn biết rõ sự thật về con người của mình. Chúng ta thường có thói quen nhìn rất sáng những thiếu sót  của người khác nhưng lại ít khi nhìn lại mình. Vì thế Đức Giêsu đã dạy : "Bạn hãy lấy  cái xà nơi mắt mình trước khi lấy cái rác nơi mắt người ‘.

2. Khi bạn khó chịu với người bạn đã góp ý và nói cho bạn biết  về một điểm xấu của bạn. Hãy bình tĩnh để kiểm thảo chính mình, thay vì bực tức bôi xấu lại người bạn đó. Trên thực tế, rất nhiều người trẻ khi  được ba mẹ nhắc nhở  cho biết những điều kiện tiêu cực của mình thì rất khó chịu  và không muốn gần gũi ba mẹ nữa.  Có bạn chống đối ba mẹ bằng cách làm ngược lại ý muốn của ba mẹ, không  chịu đi học hay đi làm nữa. Cũng có nhiều người chồng hay người vợ có tính xấu ngoài xã hội: ăn nhậu, đi chơi, lười biếng…khi được góp ý chân thành cũng không chịu đón nhận, lại nổi nóng đánh đập hay giận dỗi bỏ đi…Hãy nhìn lại mình  và nhận lỗi. Đó là nghệ thuật nuôi dưỡng tình yêu.

3. Khó chịu vì người khác không làm theo ý bạn. Bạn hãy nhận ra rằng nến bạn áp đặt người khác, bạn sẽ không chinh phục được họ. Bạn có thể hướng dẫn cho người khác những điều tốt đẹp nhưng hãy tôn trọng sự khác biệt  nơi cá tính và sở thích của họ. Trong tình yêu gia đình nên có sự  trao đổi bổ sung để làm  phong phú hơn sự hiểu biết và niềm vui. Muốn thế vợ chồng con cái cần tôn trọng lắng nghe nhau và cùng được góp ý những gì thuộc về mình. Nhiều cha mẹ đôi khi muốn con cái học nghề của mình, hoặc nhiều người chồng áp đặt ý kiến của mình  trên vợ con làm bầu khí gia đình căng thẳng, ngột ngạt. Bạn hãy thay đổi trước khi hoàn cảnh sẽ thay đổi.

4. Hiểu biết là tha thứ hết. Bạn đừng chỉ dừng lại một câu nói  hay chỉ nhìn một sự kiện  mà để lòng khó chịu với người khác. Hãy nhìn trọn vẹn con người của họ để nhận ra những điều tốt nơi họ và cảm thông với những điều còn thiếu sót  của họ. Ví dụ con cái hãy nhìn ra tình yêu bao la của cha mẹ trong suốt cuộc đời mình, đừng quá phân tích một vài câu nói trong lúc các ngài không bình tĩnh. Chúng ta cũng phải xét đến động cơ  và mục tiêu tốt đẹp mà chồng hay vợ mình đã làm  điều đó cho mình. Có thể là nó không phù hợp vói mình, nhưng cũng không  nên nóng giận  mà xúc phạm nhau, hãy bình tĩnh và ôn hoà nói lên cảm nghĩ của mình và lắng nghe lời giải thích. Khi bạn thay đổi cách cư xử, bạn sẽ là người chiến thắng.

Có những mâu thuẫn trong cuộc sống chung giữa hai con người đó là chuyện bình thường. Nhưng khi bạn nhìn lại mình,  hay khi bạn đặt mình ở vai trò  của người đang  làm cho bạn khó chịu, bạn sẽ có được thái độ cảm thông và dễ dàng tha thứ.  Qua sự tha thứ cho  nhau chúng ta có thể tránh được  việc giết chết  tình yêu vì sự khác biệt  của chúng ta, nhưng làm cho  tình yêu lớn lên nhờ những khác biệt đó.

Nữ tu Têrêsa Phạm Thi Oanh

 Dòng Đa minh Tam Hiệp

Chuyên viên  tư vấn tâm lý  giáo dục tình yêu hôn nhân gia đình

 

ĐỌC SÁCH

DẤU CHÂN CỦA THẦY

YÊU TRẺ THƠ

 

 

(Mt 19,1-12 // Mc 10,1-12)

 

Thầy kính mến,

 

Máccô kể chuyện Thầy yêu trẻ thơ. Máccô tiết kiệm lời quá, con xin phụ họa thêm một tí.

 

Hôm ấy Thầy đi truyền đạo về. Cả Thầy lẫn trò mệt đừ. Ao dài thấm đẫm mồ hôi. Hơi nóng hầm hập từ ngực bốc lên, lùa qua cổ áo, phả vào mặt. Chua lè. Ai nấy chỉ mơ ước được tắm một cái, xả hơi mươi phút, ăn qua loa, rồi đi nghỉ. Còn Thầy thì mơ ước thêm: đi cầu nguyện trên sân thượng. Nhưng … nhìn ra ngoài sân đẫ thấy lố nhố đầu người: đầu đàn bà, đầu con nít. Ai nấy đều tíu tít đòi gặp Thầy. Có tiếng đàn ông nạt nộ, xua đuổi …

 

Đầu người vẫn lố nhố. Không buồn, không giận, không chịu ra về. Vẫn hau háu chờ Thầy. Vẫn cười tươi như hoa. Họ cố đấm ăn xôi. Có tiếng trẻ thơ kêu: “Thầy ơi”.

 

Thầy vội vã đi ra, tỏ vẻ tức giận với các môn đệ và nói với họ một cách cứng cỏi: “Không được cấm cản trẻ thơ đến với Thầy”. Thầy dằn mặt họ thêm một câu nữa: “Nếu không trở nên trẻ thơ, thì đừng hòng vào Nước Trời”.

 

Các môn đệ của Thầy mắc cỡ, lỉnh đi tắm. Các bà mẹ được đà ào tới bao quanh Thầy. Bà nào cũng bồng con giơ lên để xin Thầy đặt tay chúc lành. Thầy hớn hở bồng ẵm hết bé này đến bé khác. Thương quá là thương! Sau đó, các bà mẹ bồng con đi về. Sung sướng quá chừng! Một kỷ niệm không thể quên. Các bà sẽ nhắc lại cho mình nhớ mãi, nhớ mãi. Còn Thầy thì đi tắm. Vừa đi vừa tủm tỉm cười sung sướng. Sung sướng vì được sống những giây phút thần tiên bên cạnh những thiên thần bé thơ.

 

Thầy kính mến,

 

Con làm khách bàng quan để thấy và suy nghĩ về Thầy, về các tông đồ, về các bà mẹ và về các bé thơ.

 

1. Thầy đề cao trẻ thơ

 

Từ bé đến lớn con chỉ thấy người ta khuyên trẻ thơ bắt chước người lớn. Khi con còn bé, bố con bảo: “Lớn lên mày phải đi “ở nhà thầy” (đi tu) như hai anh mầy”. Khi con đi tu, thì thầy giáo chủng viện bảo con: “Chú phải bắt chước thánh Jean Vianney mà sống nghèo khó và khiêm tốn”. Khi con làm linh mục, thì bạn con lại bảo: “Cậu phải bắt chước thánh Phanxicô Xaviê mà đi truyền giáo”. Từ ông thánh trong đạo cho tới anh hùng ngoài đời đều là những người mẫu mà trẻ thơ phải noi theo mà vươn lên. Mọi trẻ em trên thế giới, từ Đông sang Tây, cứ được dạy như thế mãi.

 

Phải chờ đến Thầy, loài người mới được nghe: “Phải trở nên như trẻ thơ mới được vào Nước Trời”. Thế là người lớn phải bắt chước trẻ con. Người mẫu Thầy muốn không phải là người lớn mà là tâm hồn trẻ thơ. Thầy là nhà cách mạng nhân văn. Thầy chủ trương: muốn có một thế giới tốt đẹp thì phải làm cho thế giới ấy giống trẻ thơ. Giống trẻ thơ không có nghĩa là khóc nhè, mà là:

 

Trẻ thơ sống rất thật. Khi các em khóc, cười, giận, ghét, yêu thương thì là thật, không ẩn ý. Người lớn đã đánh mất cái thật ấy. Khi người lớn cười thì có thể là cười mỉa. Khi người lớn khóc thì có thể là khóc mướn. Khi người lớn bảo buông súng xuống thì có thể là cầm súng lên. Khi người lớn nâng niu chiều chuộng thì có thể là mua chuộc, hoặc gài bẫy … Chỉ người lớn mới có thủ đoạn. Vì thủ đoạn, nghĩa là không chân thật, mà tình người phôi pha. Thậm chí người với người mà như chó sói với chó nhà. Vì không chân thật mà chiến tranh bùng vỡ từ cấp gia đình đến cấp quốc tế. Thậm chí có cả chiến tranh tôn giáo với tôn giáo. Phi lý vô cùng!

 

Trẻ thơ tin tưởng tuyệt đối nơi cha mẹ. Có cha mẹ ở bên cạnh, trẻ em không biết sợ hãi. Đôi cánh tay của cha mẹ là toàn năng. Thầy muốn loài người phải tin tưởng tuyệt đối vào Cha trên trời y như thế đó.

Người lớn đánh mất niềm tin nơi nhau, nên cũng không còn niềm tin nơi Đấng Tối Cao. Ong Trời là một nỗi sợ bao trùm khắp vũ trụ, gói gọn cả không gian lẫn thời gian: “Thiên võng khôi khôi”, lưới trời lồng lộng. Thế thì chạy đâu cho khỏi ông Trời.

 

Con xin mét nhỏ với Thầy là khi con còn bé, giảng viên giáo lý vẫn đem Chúa ra mà hù dọa con: “Chúa phạt chết tươi, ăn năn tội chẳng kịp”; “Chúa bỏ xuống hỏa ngục, lửa đốt đời đời”; “Ai nói dối thì ma quỷ cắt lưỡi” … Hồi ấy con chỉ biết sợ Chúa, mà chẳng biết yêu. Đó là hậu quả của một nền sư phạm giáo lý sai lầm. Đáng tiếc vô cùng! May quá, bây giờ thì con hiểu ý Thầy rồi. Đố ai làm cho con sợ Chúa được đấy. Thách đấy!

 

2. Các tông đồ nạt nộ. Tại sao?

 

Tại vì họ thương Thầy, muốn Thầy được nghỉ ngơi một chút. Họ biết Thầy mệt quá rồi, vì chính họ cũng đã quá mệt rồi, huống hồ là Thầy. Nhưng họ yêu Thầy mà không hiểu Thầy. Họ yêu sai. Tình yêu ấy là tình yêu mù lòa. Thầy tỏ vẻ bất bình.

 

Nhưng cũng tại vì họ ích kỷ. Họ chỉ nghĩ đến cái mệt của mình, mà quên nỗi khao khát của các bà mẹ muốn cho con của họ được Thầy chúc lành. Thầy không nghỉ, mà họ nghỉ thì … chướng quá! Thương Thầy chỉ là bức bình phong để thương chính mình. Bị Thầy rầy thì cũng vừa.

 

3. Đàn bà yêu con, cố đấm ăn xôi.

 

Thầy đã mệt quá rồi, mà còn đưa con đến quấy rầy Thầy thì quả là thiếu tế nhị. Bản chất của phụ nữ là tế nhị, thế mà ở đây lại không tế nhị. Tại sao?

 

Biết Thầy mệt đấy, nhưng họ thương con của họ hơn là thương Thầy. Người đàn bà nào cũng thấy và chỉ thấy con của mình là trên hết. Họ sẵn sàng chịu khổ vì con. Họ bắt Thầy cũng phải khổ vì con của họ. Tình mẫu tử là thế. Thầy biết hết và Thầy cũng sẵn sàng hy sinh cho cả con lẫn tình mẫu tử ấy. Tất cả cũng vì trẻ thơ mà thôi.

 

Bị các tông đồ nạt nộ, xua đuổi … Các bà vẫn tỉnh bơ, không buồn, không giận, nhưng không chịu rút lui. Nhất định cố đấm ăn xôi. Chịu nhục vì con, các bà không thấy nhục. Chịu khổ vì con, các bà thấy sướng. Oi, tình mẫu tử! Oi đẹp tuyệt vời! Thái độ niềm nở của Thầy chính là để tôn vinh tình mẫu tử tuyệt vời ấy.

 

Thầy kính mến,

 

Con mượn lời nhà văn Lê Lựu để mét với Thầy một chuyện đau thương. Có một người đàn bà tên là Đất (hèn hạ như đất), suốt đời nuốt nhục, suốt đời chịu cực vì con.  Thậm chí bà sẵn sàng gian dối để con bà được nhờ. Con của bà tên là Hiếu mà chẳng Hiếu chút nào. Vì quyền vì lợi, hắn chửi mẹ là “con lợn”, là “con súc vật”, là “bà cứ chết đi để tôi đỡ tốn công hầu hạ”, là “bà có chết cũng không yên với tôi đâu”. Bà Đất đã chết, chết trôi. Oi nhân tình thế thái! Oi tình mẫu tử! Thầy ơi, xin hãy cứu tình mẫu tử! Xin hãy cứu trẻ thơ!

 

Lm. Piô NGÔ PHÚC HẬU

 

 

LOGO NĂM SỐNG ĐẠO 2007